Hiện trạng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Kiên Giang

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Hiện trạng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Kiên Giang

09/04/2020

Hiện trạng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Kiên Giang

Trong nhiệm kỳ 2016 - 2020, mặc dù còn khó khăn nhiều mặt, nhưng sản xuất công nghiệp -  tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN) trong tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, duy trì được đà tăng trưởng với mức tăng khá, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) năm 2020 ước tính đạt 51.697 tỷ đồng, tăng 148,27 % so với đầu nhiệm kỳ (năm 2015); tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nhiệm kỳ (2016 - 2020) đạt 8,20%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng bình quân 10,01%/năm của nhiệm kỳ trước (2011  -2015) và chưa đạt so với mục tiêu của Nghị quyết đã đề ra.

Ngành chế biến, chế tạo tiếp tục là ngành công nghiệp chủ đạo và là động lực tăng trưởng của toàn ngành, phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh. Năm 2020, GTSXCN ngành này ước tính đạt 50.194 tỷ đồng, tăng 149,28% so với đầu nhiệm kỳ. Kế đến là ngành sản xuất  phân phối điện, nước nóng, khí đốt đạt 862 tỷ đồng, tăng 153,06 %; ngành khai khoáng ước tính đạt 330 tỷ đồng, giảm 38,11% và ngành cung cấp nước, hoạt động xử lý rác, nước thải đạt 310 tỷ đồng, tăng 213, 33% so với đầu nhiệm kỳ.

Về công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, trong nhiệm kỳ vừa qua đã thu hút 21 dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 2,45 tỷ USD; 29/116 dự án (vốn trong nước) đầu tư lĩnh vực công nghiệp được cấp chủ trương đầu tư, với tổng vốn đầu tư 3.241 tỷ đồng, diện tích đăng ký sử dụng đất là 437 ha, hoạt động trong các lĩnh vực chế biến nông lâm, thủy sản, khai thác và chế biến vật liệu xây dựng, giày da, may mặc,…

Về hoạt động khuyến công, UBND tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho 27 đề án đầu tư đổi mới thiết bị, ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến vào sản xuất cho các cơ sở công nghiệp nông thôn, với tổng nguồn vốn đầu tư là 27,14 tỷ đồng.

Hiện nay, tỉnh đã xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư vào 02 khu công nghiệp (KCN): Thạnh Lộc -  Châu Thành; Thuận Yên - Hà Tiên và phát triển thêm KCN Xẻo Rô - An Biên; tiếp tục tập trung xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng kỹ thuật 03 cụm công nghiệp (CCN), gồm: Vĩnh Hòa  Hưng Nam - Gò Quao; Đông Bắc Vĩnh Hiệp - Rạch Giá và Hà Giang - Hà Tiên.

Ngoài những kết quả đã đạt được, tuy nhiên công nghiệp Kiên Giang vẫn còn tồn tại những hạn chế:

- Giá trị sản xuất công nghiệp chưa đạt theo mục tiêu tăng trưởng của Nghị quyết. Cụ thể: Giá trị sản xuất công nghiệp thực hiện cuối nhiệm kỳ chỉ đạt 51.697,40 tỷ đồng bằng 83,32% so với kế hoạch; tốc độ tăng trưởng bình quân cả nhiệm kỳ đạt 8,20%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng 12%/năm mà tỉnh đã đề ra.

- Ngành công nghiệp đang phát triển theo chiều rộng, chưa tập trung phát triển theo chiều sâu nên chưa khai thác triệt để tiềm năng và chưa thật sự bền vững. Một số nhóm ngành không tăng trưởng như mục tiêu đề ra mà còn có xu hướng chững lại, có nguy cơ giảm quy mô phát triển. Cơ cấu, chất lượng hàng hóa tuy có được nâng lên, nhưng nhìn chung vẫn chưa theo kịp nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

- Công tác kêu gọi, thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp còn hạn chế, chưa đảm bảo theo định hướng quy hoạch, chưa ban hành cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh mang tính đột phá đủ mạnh để thu hút các tập đoàn, công ty đa quốc gia triển khai đầu tư phát triển công nghiệp nên phần nào ảnh hưởng đến kết quả tăng trưởng của ngành.

-Tình hình đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tuy có triển khai nhưng thực hiện còn chậm. Chỉ có 01/03 KCN đã đầu tư cơ bản về hạ tầng kỹ thuật; còn lại KCN Thuận Yên - Hà Tiên và KCN Xẻo Rô - An Biên chưa triển khai hạ tầng. Bên cạnh đó, chỉ có 01/03 CCN triển khai đầu tư cơ bản hạ tầng kỹ thuật, có thể cho thuê đất sản xuất, kinh doanh. Các CCN còn lại chưa kêu gọi được nhà đầu tư hạ tầng hoặc có doanh nghiệp đầu tư nhưng triển khai chậm.

- Chất lượng, năng suất lao động trong lĩnh vực công nghiệp chưa cao, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của ngành và doanh nghiệp; trình độ công nghệ ngành công nghiệp đang từng bước được nâng lên, song chỉ đạt ở mức trung bình khá và dịch chuyển khá chậm; ý thức chấp hành của một số doanh nghiệp về xử lý môi trường còn hạn chế, gây tác động xấu đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến an sinh xã hội ở một số khu vực.

- Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp có mặt còn hạn chế. Mối liên kết giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân chưa chặt chẽ; một số chính sách hỗ trợ của nhà nước ban hành tuy đã có triển khai nhưng chưa thật sự đi vào thực tiễn. Nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế :

- Mô hình sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún là phổ biến, nhiều tầng nấc trung gian trước khi nguyên liệu đến nhà máy sản xuất đã làm tăng chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp, nguồn nguyên liệu thủy sản đánh bắt ngày càng giảm, việc quản lý khai thác chưa hiệu quả dẫn đến thiếu nguyên liệu cục bộ chưa đảm bảo công suất của các nhà máy, việc triển khai thực hiện chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp còn bất cập.

- Các doanh nghiệp chưa quan tâm đến liên kết tổ chức sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị và tạo ra sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chưa theo kịp tiến trình hội nhập, chưa khai thác, tận dụng cơ hội cũng như thách thức từ các hiệp định thương mại tự do mang lại. Tình hình đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách trong thời gian qua giảm, phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất của nhóm ngành chế biến vật liệu xây dựng.

- Tiềm năng khoáng sản đang được khai thác ở mức tối đa trữ lượng hiện có, nên việc đầu tư mở rộng dự án để nâng giá trị sản xuất của nhóm ngành khai thác và chế biến VLXD không khả thi. Lĩnh vực chế biến thủy sản từ nguồn nuôi trồng chưa quan tâm đúng mức. Một số dự án đăng ký đầu tư trong nhiệm kỳ nhưng không triển khai hoặc chậm triển khai làm ảnh hưởng đến tăng tưởng chung của toàn ngành. Ngoài ra, số lượng cơ sở công nghiệp có quy mô nhỏ, thậm chí siêu nhỏ chiếm phần lớn trong tổng số cơ sở công nghiệp toàn tỉnh, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường chưa cao.

- Công tác đầu tư xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch chưa đảm bảo theo mục tiêu Nghị quyết do không kêu gọi được nhà đầu tư hạ tầng. Việc đầu tư xây dựng các KCN chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư công từ ngân sách Trung ương và một phần từ ngân sách tỉnh, nên chưa chủ động triển khai mà phụ thuộc vào tiến độ phân bổ vốn. Mặt khác, một số CCN giao cho doanh nghiệp đầu tư, nhưng năng lực tài chính còn yếu nên chưa đảm bảo tiến độ theo quy định.

- Kết cấu hạ tầng giao thông thủy, bộ của tỉnh còn hạn chế, nhất là chưa đầu tư hoàn chỉnh hệ thống cảng biển làm cho chi phí logistics cao, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, dẫn đến khó kêu gọi đầu tư các dự án theo quy hoạch. Cùng với đó, nguồn vốn nội tại của Kiên Giang còn thấp, phụ thuộc nhiều vào ngân sách Trung ương phân bổ, nên chưa thể xây dựng những chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư đặc thù, mang tính đột phá, nhất là đầu tư phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn và phát triển các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch.

- Việc triển khai các đề án, dự án về ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ trong phát triển các nhóm ngành hàng, mặt hàng công nghiệp chưa sâu rộng; một số doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, chưa chú trọng đến nhiệm vụ xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.

Để ngành công nghiệp trở thành động lực tăng trưởng nền kinh tế Kiên Giang, trong nhiệm kỳ tới (2021 - 2025), tỉnh đã đưa ra một số chỉ tiêu phát triển ngành công nghiệp như: phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt từ 8,5 - 9%/năm (ước tính đạt 77.700 tỷ đồng đến 79.500 tỷ đồng ); tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư vào 03 KCN (Thạnh Lộc - Châu Thành, Thuận Yên - Hà Tiên, Xẻo Rổ - An Biên) và 03 CCN Vĩnh Hòa Hưng Nam - Gò Quao, Hàm Ninh - Phú Quốc, Bình An - Châu Thành) và tiếp tục kêu gọi đầu tư hạ tầng một số cụm công nghiệp Hà Giang - Hà Tiên, Đông Bắc Vĩnh Hiệp - Rạch Giá.

Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:

 (1) Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, tập trung quy mô lớn, đáp ứng với nhu cầu của thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.

(2) Tập trung đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế, các nhóm ngành hàng mang lại giá trị gia tăng cao, đóng góp nhiều cho tăng trưởng và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngành công nghiệp từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu nhằm khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu quả kinh tế, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với nguồn tài nguyên không tái tạo.

(3) Tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng hạ tầng kỹ thuật đáp ứng cho phát triển công nghiệp, nhất là hạ tầng giao thông đường bộ, cảng biển nước sâu để kết nối, thông thương hàng hóa, giảm chi phí logistics cho doanh nghiệp.

(4) Đẩy mạnh công tác xúc tiến mời gọi đầu tư các dự án công nghiệp theo quy hoạch, các dự án đã đăng ký đầu tư theo chuỗi giá trị với quy mô lớn.

(5) Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nâng chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh nhằm tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh hấp dẫn, thông thoáng và cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển công nghiệp.

(6) Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực đảm bảo yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp trong tương lai; nâng cao năng lực của các cơ sở đào tạo, các trường trên địa bàn tỉnh để đảm bảo cung ứng lực lượng lao động có trình độ, chất lượng, bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, có khả năng vận hành máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại; tăng cường tổ chức các lớp tọa đàm, tập huấn, đào tạo để giúp người lao động nâng cao ý thức, tác phong công nghiệp và nắm bắt cơ hội việc làm.

(7) Tiếp tục đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý của chính quyền các cấp; tăng cường công tác quản lý môi trường trong sản xuất công nghiệp, nhất là các ngành có phát sinh chất thải gây ô nhiễm môi trường cao, đẩy mạnh công tác khuyến công có sở và triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án khuyến công. Đồng thời tăng cường hỗ trợ đầu tư, quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho các cơ sở công nghiệp thông qua chính sách hỗ trợ xúc tiến đầu tư, thương mại hiện hành./.

Nguồn: Theo báo cáo của Tỉnh ủy Kiên Giang

 

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại

BÀI VIẾT KHÁC