Tờ New Yorker đặt vấn đề: Liệu chúng ta có được thịnh vượng mà không cần tăng trưởng chăng? Giorgos Kallis, một nhà kinh tế học tại đại học Barcelona viết trên tuyên ngôn “Dừng tăng trưởng” rằng: “Chúng ta càng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhanh chừng nào thì càng gây hại cho môi trường chừng đó. Nếu loài người không muốn hủy diệt các hệ thống hỗ trợ sự sống của hành tinh này thì nền kinh tế toàn cầu phải chạy chậm trở lại”.
Lý thuyết và vấn đề đặt ra
Một vấn đề chung được đặt ra cho tất cả các quốc gia đang phát triển là quốc gia nào thực sự được hưởng lợi và quốc gia nào sẽ nghèo đi; làm gì để được hưởng lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có gia tăng xuất khẩu (?). Điều đó phụ thuộc vào việc mỗi quốc gia đã và sẽ chế tạo những sản phẩm gì để tham gia vào thị trường thế giới và thoả mãn nhu cầu của thị trường nội địa. Đối với những quốc gia có quy mô dân số trung bình như Việt Nam thì việc tìm ra điểm cân bằng đó là rất quan trọng.
Trong các nghiên cứu về quan hệ thị trường nội địa và thị trường quốc tế, hầu như các nhà nghiên cứu nước ta chưa quan tâm nhiều đến lý thuyết về điểm cân bằng này, do vậy, khó mà có được những kết luận khoa học của tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng bao nhiêu % GDP là hợp lý, cũng như thị phần xuất khẩu của từng nhóm sản phẩm, mối tương quan giữa sản phẩm chế tác, sản phẩm trung gian và nguyên liệu thô.
Nhìn một cách tổng quát, những năm gần đây tăng trưởng của khu vực công nghiệp, xây dựng khá cao, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho tăng trưởng (GDP) là một xu hướng tốt. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là công nghiệp và xây dựng tăng trưởng như vậy, nhưng chúng ta tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu được nhiều hay ít và ở những nấc thang giá trị nào, quan trọng hơn là giá trị gia tăng đem lại cho Việt Nam là bao nhiêu.
Mặt khác, tuy Việt Nam chưa trở thành nước công nghiệp đúng nghĩa, nhưng nhiều vấn đề về môi trường đã rất nghiêm trọng. Mỗi năm chúng ta thiệt hại do ô nhiễm môi trường tương đương với 5% GDP, bằng nửa con số này ở Trung Quốc là 10% (Đinh Đức - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân-2019). Theo số liệu từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2010, lượng phát thải khí nhà kính (Greenhouse gas - GHG) của Việt Nam khoảng 247 triệu tấn, trong năm 2016, lượng phát thải GHG đã là 423 triệu tấn. Như vậy, tăng trưởng về GHG bình quân phát ra từ năm 2010 - 2016 khoảng 8%, tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,2% trong giai đoạn này.
Năm 2017, trong nghiên cứu “Phân tích GDP và sự phát triển bền vững về môi trường”, dựa trên phương pháp cân đối liên ngành Input - Output, GS. Nguyễn Quang Thái và TS. Bùi Trinh đã chỉ ra: lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam thực sự đáng báo động, đặc biệt ở hai lĩnh vực mũi nhọn là nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu hàng hóa. Cụ thể, nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thải ra lượng GHG lớn nhất, gấp 3 lần mức bình quân của thế giới. Xét về phía cầu cuối cùng, sản xuất hàng xuất khẩu gây nên phát thải GHG lớn nhất, chiếm trên 50% tổng lượng phát thải GHG.
Một số khuyến nghị về định hướng và giải pháp
Chúng ta đang sống trong bối cảnh mới của một thế giới đang vận động rất nhanh và có những yếu tố mới, điển hình là cách mạng công nghiệp 4.0 và biến đổi khí hậu đang và sẽ ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế xã hội, cấu trúc kinh tế và quản trị quốc gia ở Việt Nam. Hai yếu tố này tạo ra một sức ép mới, thách thức mới: Vẫn có thể vừa tăng trưởng nhanh vừa bền vững được nếu biết tận dụng các thành tựu và cơ hội từ cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như từ những ý tưởng mới.
Trở ngại lớn nhất đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển hiện nay là làm thế nào để tận dụng được cơ hội của quá trình hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế, đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực của nó đối với các vấn đề xã hội và môi trường. Trong bối cảnh như vậy, cần thiết phải có cơ chế phối hợp xây dựng và triển khai các chính sách trong phát triển và bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá.
Cần phải nhanh chóng cấu trúc lại thị trường, chú trọng trước hết là mối quan hệ giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế, đồng thời với việc tái cấu trúc thể chế kinh tế, trong đó đặc biệt quan trọng là chính sách ngoại thương. Theo đó, hệ thống chính sách và cơ chế quản lý của nhà nước thời gian tới cần phải hướng đến những nội dung sau:
- Hợp nhất các mục tiêu môi trường vào công tác kế hoạch hoá của quốc gia, các ngành, các tỉnh, cũng như kế hoạch hoá phát triển các đô thị.
- Chuyển dần quản lý môi trường từ chủ yếu thông qua các mệnh lệnh hành chính sang cơ bản là thông qua các biện pháp kinh tế. Quản lý bằng mệnh lệnh hành chính chủ yếu được áp dụng đối với những lĩnh vực, địa bàn mà nạn ô nhiễm đã lên tới mức báo động.
- Sớm ban hành các văn bản dưới luật tạo khuôn khổ pháp lý ổn định cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động trong môi trường cạnh tranh, kết hợp giải quyết tốt giữa yêu cầu tự do hoá thương mại với bảo vệ môi trường.
- Cần xây dựng và ban hành chính sách, biện pháp hạn chế nhập khẩu, tiến đến thử nghiệm đấu giá các giấy phép nhập khẩu đối với những hàng hoá gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Đây là chính sách và biện pháp cần thiết có tác động điều chỉnh trực tiếp đối với các sản phẩm gây hại đến môi trường, phát thải các chất gây hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng ô-zôn.
Không thể phát triển nếu không có sự đánh đổi. Cần thống nhất được (về nguyên tắc) mức độ có thể chấp nhận để sự đánh đổi là phát triển chứ không phải là hủy hoại tài nguyên, môi trường, là “phản phát triển”. Chúng ta đã nhận ra không thể nào tập trung vào tài nguyên được, vì tài nguyên cũng sẽ cạn kiệt cùng với tăng ô nhiễm môi trường và nếu là tăng trưởng bền vững thì không thể dựa vào tài nguyên.
Hai nhà kinh tế học mới đoạt giải Nobel năm 2019 là Abhijit Banerjee và Esther Duflo cho rằng GDP lớn hơn không nhất thiết có nghĩa sự phồn vinh của người dân tăng thêm, nhất là khi miếng bánh GDP không được chia đều cho mọi người. Cháy rừng, băng tan, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh bùng phát là hồi chuông cảnh tỉnh loài người phải cân nhắc lại mô hình phát triển. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam phải đi vào chất lượng và phải quyết liệt việc dựa vào đổi mới sáng tạo, dựa vào khoa học công nghệ, dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao và biết tập hợp những người tài, trong đó đặc biệt là 4,5 triệu Việt kiều.
Trong thống kê chúng ta chưa tính được chi phí mà chúng ta phải trả giá (chi phí về xã hội, chi phí về môi trường, rồi không khí ô nhiễm thì chi phí cho người dân đi chữa bệnh, hay chi phí của tài nguyên thiên nhiên mất đi để đóng góp cho tăng trưởng, rồi các vấn đề khác của xã hội…). Chính vì thế phải đặt ra và thực thi quyết liệt việc thực thi chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó có nội dung quan trọng là GDP xanh, làm rõ chi phí chúng ta phải bỏ ra bao nhiêu để đạt mức tăng trưởng cao là 6,9 hay 7,08%... Tăng trưởng nhưng nhiều tầng lớp xã hội có thể bị bỏ rơi hay bị đặt ở ngoài lề. Vì thế phải làm thế nào để tất cả người dân đều được tham gia, chia sẻ kết quả của quá trình tăng trưởng.
Cần phải đi vào hai cánh của chuỗi nụ cười giá trị gia tăng và một bên là makerting, bán hàng, phân phối thì mới có giá trị nhiều hơn. Vấn đề của chúng ta là phải bắt nhịp nhanh hơn với nền kinh tế thế giới, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Cần phải chuyển đổi nhanh hơn, chuyển đổi cụ thể hơn vào lĩnh vực mà ta có lợi thế và nếu biết tận dụng các cơ hội và hạn chế thách thức từ các yếu tố mang lại tăng trưởng và phát triển./.
Lương Thanh Hải
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT