Hoạt động Công Thương trên địa bàn tỉnh Điện Biên luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tỉnh Ủy, HĐND và UBND tỉnh, Bộ Công Thương và sự phối kết hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong tỉnh. Các cấp, các ngành trong Tỉnh tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm, các nhóm giải pháp chủ yếu triển khai thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2016 - 2020; Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 22/7/2016 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 22/7/2016 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2016 - 2021; Nghị quyết và các chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XIII…. Các cơ chế chính sách ngày càng được đồng bộ hoàn chỉnh, Chính phủ có nhiều chính sách ưu đãi cụ thể cho các tỉnh miền núi biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và vùng đặc biệt khó khăn.
Từ đầu năm 2020 đến thời điểm hiện tại, do dịch bệnh đường hô hấp cấp Covid-19 có mức độ lây lan cao trên phạm vi toàn thế giới, cùng với những biện pháp phòng chống sự lây lan của dịch bệnh rất nghiêm ngặt của Chính Phủ, các Bộ, Ngành Trung ương và của Tỉnh Điện Biên đã tác động và tạo ra những khó khăn không nhỏ đến các hoạt động thuộc lĩnh vực ngành Công Thương quản lý trên địa bàn tỉnh, dẫn đến các kết quả thực hiện nhiệm vụ của ngành năm cuối của giai đoạn 2016 - 2020 không đạt như kế hoạch đã đề ra.
I. Kết quả hoạt động sản xuất công nghiệp 2016 - 2020
1. Kết quả hoạt động sản xuất công nghiệp 5 năm 2016 - 2020
- Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh (theo giá so sánh 2010) giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 13.562 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân ước đạt 9,67%/năm, không đạt mục tiêu so với kế hoạch 5. Ước năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.250 tỷ đồng, đạt 64,46% so với mục tiêu kế hoạch 5 năm (5.042 tỷ đồng).
- Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 4.495,98 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12,31%, không đạt mục tiêu so với kế hoạch 5 năm.
1.1. Giá trị sản xuất phân theo ngành công nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 (theo giá so sánh 2010)
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh (theo giá so sánh 2010) giai đoạn 2016 - 2020 dự ước đạt 13.562 tỷ đồng trong đó:
- Ngành công nghiệp khai thác ước đạt 684,3 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 7,51%/năm, đạt 82% so với kế hoạch 5 năm.
- Ngành công nghiệp chế biến ước đạt 10.977,7 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 9,62%/năm, đạt 68% so với kế hoạch 5 năm.
- Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt ước đạt 1.687,9 tỷ đồng tăng trưởng bình quân 12,03%/năm, đạt 78% so với kế hoạch 5 năm.
- Ngành cung cấp nước và xử lý rác thải ước đạt 212,2 tỷ đồng, tăng trưởng 4,2%/năm, đạt 77% so với kế hoạch 5 năm.
1.2. Đánh giá về quy mô, trình độ sản xuất, các sản phẩm công nghiệp
Toàn tỉnh hiện có 99 doanh nghiệp với tổng số 2.751 lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh ước khoảng 6.350 tỷ đồng. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp số lượng ít, quy mô vừa và nhỏ, trình độ năng lực, công nghệ sản xuất còn hạn chế, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu phục vụ nhu cầu trong tỉnh; một số ngành, lĩnh vực chưa thu hút được doanh nghiệp đầu tư như: Điện tử, da giầy, phân bón, hóa chất,...
- Khai thác khoáng sản: Trên địa bàn tỉnh có 14 đơn vị khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tại 18 điểm mỏ (trong đó 10 điểm mỏ được cấp mới với tổng công suất 134.000 m3/năm), cung cấp đáp ứng đủ nhu cầu thị trường; 02 đơn vị khai thác than tại 03 điểm mỏ; 01 điểm mỏ khai thác chì kẽm đang hoạt động và 01 đơn vị thăm giò đánh giá trữ lượng; Mỏ vàng Phì Nhừ đã thực hiện thủ tục đóng cửa mỏ, dừng khai thác. Các mỏ khoáng sản than, chì kẽm trên địa bàn tỉnh hiện có công suất khai thác thực tế nhỏ hơn nhiều so với công suất đã phê duyệt, do các mỏ khoáng sản chưa được thăm dò đánh giá trữ lượng khoáng sản, vỉa quặng không ổn định, khai thác thủ công, địa hình khai thác khó, chi phí khai thác lớn, …, ảnh hưởng đến năng suất khai thác, chủ yếu khai thác cung ứng nhu cầu nội tỉnh và một số tỉnh lân cận.
- Ngành công nghiệp chế biến: Hiện có 65 doanh nghiệp và khoảng 2.643 cơ sở kinh tế cá thể hoạt động. Trong đó, 9 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến thực phẩm và đồ uống; 14 doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; 23 doanh nghiệp sản xuất, gia công cơ khí nhỏ; 6 doanh nghiệp chế biến gỗ và sản xuất giường tủ, bàn ghế....; 7 doanh nghiệp in sao chép; 6 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo khác. Đối với hộ cá thể, phần lớn hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến thực phẩm, đồ uống khoảng 1.550 hộ, chiếm 58,65% tổng số cơ sở cá thể toàn ngành; các hộ kinh doanh còn lại hoạt động trong lĩnh vực sản xuất trang phục; sản xuất, sửa chữa, gia công cơ khí; sản xuất đồ gỗ và lĩnh vực khác...Trong giai đoạn 2016 - 2020, ngành công nghiệp chế biến tăng trưởng chủ yếu ở nhóm ngành chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất vật liệu xây dựng. Trong giai đoạn đã thu hút đầu tư 6 dự án sản xuất gạch không nung với tổng công suất 70 triệu viên/năm, tổng vốn đầu tư khoảng 80 tỷ đồng; dự án chế biến gạo chất lượng cao bằng dây chuyền công nghệ tự động của Công ty TNHH giống nông nghiệp Trường Hương tại huyện Điện Biên, công suất dây chuyền đạt 3.000 tấn/năm, tổng vốn đầu tư khoảng 15 tỷ đồng; nhà máy tinh bột sắn công suất 80 tấn tinh bột khô/ngày, tổng vốn đầu tư khoảng 70 tỷ đồng tuy nhiên dự án vẫn đang trong quá trình hoàn thiện đầu tư.
- Cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải: Trong giai đoạn 2016 - 2020, hệ thống cung cấp nước máy sinh hoạt đã được đầu tư đến hầu hết trung tâm các huyện, thị, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của người dân với tổng công suất đạt khoảng 9 triệu m3/năm; Tỉnh đã triển khai dự án đầu tư xây dựng công trình, hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý nước thải thành phố Điện Biên Phủ với tổng vốn đầu tư trên 274 tỷ đồng; cấp chủ trương đầu tư triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng Nhà máy xử lý rác thải Điện Biên do Công ty Cổ phần Môi trường đô thị và Xây dựng Điện Biên làm chủ đầu tư tại xã Pom Lót huyện Điện Biên với tổng vốn đầu tư gần 70 tỷ đồng.
- Về duy trì, phát triển ngành nghề thủ công truyền thống, phát triển tiểu thủ công nghiệp: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Điện Biên chưa có làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nào đủ tiêu chuẩn để được công nhận theo quy định; hiện tại có 07 làng nghề cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề thủ công truyền thống trên địa bàn tỉnh chủ yếu phát triển dưới hình thức hộ cá thể với số lượng khoảng 2.643 cơ sở kinh tế cá thể, có một số Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, Doanh nghiệp tư nhân song quy mô rất nhỏ, năng lực, kinh nghiệm quản lý còn nhiều hạn chế; các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống chủ yếu như: Dệt, may trang phục thổ cẩm, Mây tre đan những năm qua tuy đã dần được khôi phục song sản phẩm mẫu mã còn đơn điệu, chưa phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của thị trường, đặc biệt là phục vụ làm quà tặng du lịch. Trong những năm qua, việc hỗ trợ, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề thủ công truyền thống của tỉnh được thực hiện thông qua các chính sách khuyến công, khuyến nông, xúc tiến thương mại...đã góp phần khôi phục và dần phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân lao động, ổn định tình hình an ninh trật tự ở nông thôn.
1.3. Đầu tư cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp
Trong giai đoạn 2016 - 2020, triển khai quy hoạch phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; đã phê duyệt thành lập 01 cụm công nghiệp; phê duyệt đề cương, dự toán lập quy hoạch chi tiết tiến tới lập dự án đầu tư cụm công nghiệp trên địa bàn huyện Mường Ảng với tổng kinh phí là hơn 930 triệu đồng. UBND tỉnh cho chủ trương khảo sát lập dự án đầu tư cụm công nghiệp phía Đông huyện Tuần Giáo. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh chưa có cụm công nghiệp nào được đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật.
1.4. Phát triển hệ thống nguồn, lưới điện trên địa bàn
- Nguồn điện tỉnh Điện Biên được cấp từ hai nguồn điện chính:
+ Nguồn điện quốc gia: Hiện tại tỉnh Điện Biên được cấp điện từ lưới điện quốc gia thông qua 02 tuyến đường dây chính: Đường dây 110kV Sơn La - Thuận Châu - Tuần Giáo - Điện Biên và đường dây mạch kép Thủy điện Lai Châu - Tuần Giáo.
+ Nguồn điện tại chỗ: Trên địa bàn tỉnh tính đến ngày 17/7/2020 có 11 nhà máy thủy điện đang vận hành khai thác, tổng công suất lắp máy 137,3MW (gồm các thủy điện: Nậm He 16MW; Thác Bay 2,4 MW; Nà Lơi 9,3MW; Thác Trắng 6 MW; Pa Khoang 2,4 MW; Nậm Mức 44MW; Trung Thu 30MW; Nậm Núa 10,8MW; Nậm Mu 2 là 10,2MW; Nậm Khẩu Hu 3 MW; Na Son 3,2MW).
+ Tổng công suất các nhà máy thủy điện đang vận hành khai thác tính đến hết năm 2020 ước đạt 188,8MW và đạt 78,67% kế hoạch (tổng công suất đến hết năm 2020 đạt 244MW), công suất dự kiến tăng thêm trong giai đoạn 2016 - 2020 là 108,7MW.
- Hạ tầng lưới điện trên địa bàn tỉnh
Trong 5 năm qua việc đầu tư phát triển hạ tầng lưới điện trên địa bàn tỉnh được quan tâm đầu tư bằng nhiều nguồn vốn như vốn ngành điện, vốn vay ADB, vốn Chương trình 135, vốn ngân sách Trung ương và Địa phương.
Ước thực hiện đến hết năm 2020, trên địa bàn tỉnh có: 280,76km đường dây 110kV; 2.743km đường dây 35/22kV; 3.471,1km đường dây 0,4kV; 1.394 trạm biến áp phân phối, tổng dung lượng 200.593kVA.
+ Điện sản xuất (điện phát ra): Lũy kế điện sản xuất trong giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 1.915,911 triệu kWh đạt 62% mục tiêu kế hoạch 05 năm giai đoạn 2016 - 2020 (kế hoạch 5 năm 3.080 triệu kWh).
+ Đến hết năm 2020, toàn tỉnh có: 10/10 huyện, thị xã, thành phố có điện lưới Quốc gia, đạt tỷ lệ 100%; 129/129 xã, phường, thị trấn (trong đó: 14/14 phường, thị trấn; 115/115 xã) có điện đạt tỷ lệ 100% và đạt mục tiêu kế hoạch. (Tổng số xã, phường, thị trấn giảm so với kế hoạch là do sát nhập xã Tà Lành và xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ thành “xã Thanh Minh” theo Nghị quyết số 815/NQ-UBTVQH14 ngày 21/11/2019 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội Về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Điên Biên).
+ Có trên 92% số hộ dân được sử dụng điện, không đạt mục tiêu Kế hoạch (98% số hộ dân được sử dụng điện).
1.5. Tình hình thực hiện các dự án điện giai đoạn 2016 - 2020
* Dự án phát triển lưới điện
Trong giai đoạn 2016 - 2020 có trên 30 công trình, dự án đầu tư phát triển lưới điện trên địa bàn tỉnh với tổng số vốn thực hiện trên 430,102 tỷ đồng.
- Tập đoàn điện lực Việt Nam đang triển khai đầu tư xây dựng tuyến đường dây, trạm biến áp: Tuyến đường dây và TBA 110kV Điện Biên - Mường Chà; Tuyến đường dây 110kV Mường Chà - thủy điện Long Tạo, tuyến đường dây và TBA 220kV Sơn La - Điện Biên, Trạm cắt 110kV Điện Biên 2.
- Tuyến 110kV Chà Cang - nối trạm 500/220/110kV thủy điện Lai Châu.
* Dự án phát triển nguồn điện
Trong giai đoạn 2016 - 2020, trên địa bàn toàn tỉnh thực hiện đầu tư 10 dự án thuỷ điện (gồm cả các dự án thực hiện trong giai đoạn trước chưa hoàn thành chuyển sang), với tổng công suất là 158,2MW, tổng vốn đầu tư của 10 dự án trên 5.654,806 tỷ đồng. Đã hoàn thành công tác xây dựng và đưa vào vận hành khai thác 05 nhà máy thủy điện (Trung Thu, Nậm Núa, Nậm Mu 2, Nậm Khẩu Hu, Na Son), công suất tăng thêm của 05 nhà máy là 57,2MW.
1.6. Kết quả thực hiện hoạt động khuyến công 2016 - 2020
Từ năm 2016 đến năm 2020, tổng kinh phí hỗ trợ ước đạt 5,851 tỷ đồng, trong đó, nguồn vốn khuyến công quốc gia là 4,375 tỷ đồng; nguồn vốn khuyến công địa phương là 1,476 tỷ đồng; số cơ sở được hỗ trợ kinh phí là 28 cơ sở với tổng kinh phí hỗ trợ là 5.075 triệu đồng. Hoạt động hỗ trợ tập trung chủ yếu vào hỗ trợ máy móc thiết bị tiên tiến trong sản xuất, như: chế biến nông, lâm sản, sản xuất, gia công cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, tấm lợp (tôn)….
Kết quả hoạt động khuyến công của tỉnh trong thời gian qua đã có bước phát triển, góp phần tạo điều kiện khuyến khích các cơ sở công nghiệp nông thôn đầu tư mở rộng, phát triển sản xuất, nâng cao năng lực quản lý và nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất dần đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp đã được đầu tư ứng dụng máy móc tiên tiến, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo chuyển biến tích cực trong việc hiện đại hóa sản xuất, giảm lao động thủ công nặng nhọc, làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo điều kiện cho các cơ sở công nghiệp nông thôn phát triển ổn định, bền vững đem lại lợi ích cho đơn vị sản xuất, cho người lao động và cho xã hội.
Xây dựng, tổ chức thực hiện: Các đề án thuộc Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2016 - 2020; các đề án hỗ trợ áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp giai đoạn 2016 - 2020.
II. Đánh giá chung về những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động công nghiệp
1. Những kết quả đạt được
Hoạt động Công nghiệp trong thời gian qua duy trì được tốc độ tăng trưởng và phát triển ổn định, đã tập trung khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế nhất của tỉnh nhất là trong lĩnh vực thủy điện, sản xuất vật liệu xây dựng…Tiếp tục duy trì và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực trong hoạt động công nghiệp chế biến đặc biệt là chế biến nông lâm sản; Trong giai đoạn này đầu tư lưới điện và nguồn điện được quan tâm (lưới điện cao thế, trung thế, hạ thế), thực hiện đầu tư 10 dự án thuỷ điện (gồm cả các dự án thực hiện trong giai đoạn trước chưa hoàn thành chuyển sang), tổng vốn đầu tư của 10 dự án trên 5.654 tỷ đồng. Tổng công suất các nhà máy thủy điện đang vận hành khai thác tính đến hết năm 2020 ước đạt 188,8MW, công suất dự kiến tăng thêm trong giai đoạn 2016 - 2020 là 108,7MW, đã cơ bản đáp ứng và phục vụ được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân.
- Nhiều cơ sở sản xuất trong ngành đã và đang từng bước đầu tư đổi mới máy móc và công nghệ, nhằm sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường như trong ngành khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng.
- Một số nhà máy, cơ sở sản xuất mới được đầu tư đi vào hoạt động như: 5 nhà máy thủy điện, tổng công suất là 57,2 MW (nhà máy thủy điện Nậm Núa công suất 10,8 MW, nhà máy thủy điện Nậm Mu 2 công suất 10,2 MW, Nậm Khẩu Hu 3 MW, Na Son 3,2 MW, Trung Thu 30 MW) với sản lượng điện theo thiết kế đạt 224 triệu kWh/năm; một số cơ sở sản xuất gạch không nung tại Mường Nhé, Nậm Pồ, Điện Biên Đông, nhà máy chế biến gạo bằng dây chuyền tự động tại huyện Điện Biên... góp phần gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp của tỉnh.
- Hệ thống lưới điện truyền tải và phân phối được quan tâm đầu tư đáp ứng nhu cầu truyền tải công suất phát điện của các nhà máy thủy điện hòa vào lưới điện quốc gia, đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân sinh, hoàn thành mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
- Tập trung phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, gắn phát triển công nghiệp nông thôn với các làng nghề truyền thống, phát triển đa dạng các sản phẩm hàng hóa, dần từng bước nâng cao giá trị cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của địa phương.
2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân
Tốc độ tăng trưởng bình quân và giá trị sản xuất công nghiệp không đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2020 ước đạt 3.250 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9,67%/năm, tăng 1,58 lần so với năm 2015, bằng 64,46% mục tiêu kế hoạch 5 năm (5.042 tỷ đồng). Nguyên nhân do:
- Tăng trưởng của ngành công nghiệp tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến: Sản xuất vật liệu xây dựng; chế biến nông sản, thực phẩm và sản xuất, phân phối điện. Các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh đều có quy mô nhỏ và rất nhỏ, nguồn lực hạn chế. Sản phẩm sản xuất chưa đa dạng, chưa có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Các cơ chế khuyến khích hiện tại không thu hút được các nhà đầu tư vào địa bàn.
- Một số dự án có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất công nghiệp không hoạt động, không triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ như: 2 nhà máy sản xuất gỗ, tre công nghiệp tại huyện Tuần Giáo và Điện Biên vẫn dừng hoạt động; dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su không đầu tư theo kế hoạch; một số dự án đã cấp chủ trương đầu tư song không thực hiện, phải chấm dứt chủ trương đầu tư: Nhà máy chế biến gạo chất lượng cao tại huyện Điện Biên của công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Sông Cầu, Nhà máy sản xuất phân vi sinh tại huyện Điện Biên của Công ty đầu tư xây dựng và dịch vụ kỹ thuật 10/10, Nhà máy chế biến lương thực thực phẩm của Công ty TNHH nông sản thực phẩm sinh thái Điện Biên, Khu chế biến và trại chăn nuôi lợn giống siêu nạc của Công ty TNHH thức ăn chăn nuôi Việt Trung. Một số dự án chậm tiến độ như dự án chăn nuôi đại gia súc bò thịt tại huyện Tuần Giáo; một số dự án thủy điện dự kiến hoàn thành song chậm tiến độ theo kế hoạch như: Nậm Pay, Sông Mã 3, Huổi Vang, Mường Mươn… Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản hoạt động cầm chừng do trữ lượng thấp, chì kẽm đang trong giai đoạn thăm dò...; Chưa đầu tư được hạ tầng khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch phát triển. Quỹ đất quy hoạch cho thu hút đầu tư công nghiệp không thực sự thuận lợi, khó khăn trong phát triển. Công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho phát triển các ngành công nghiệp còn nhỏ, manh mún, dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu phát triển…
- Đầu tư hạ tầng để phát triển công nghiệp còn hạn chế như: Khu, cụm công nghiệp, hệ thống lưới điện nông thôn, hệ thống chợ, cửa hàng, kho bảo quản dự trữ hàng hóa, khu kinh tế cửa khẩu; khai thác cửa khẩu; chưa khai thác được tối đa các tiềm lực phát triển các khu kinh tế cửa khẩu. Hoạt động công nghiệp chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, hạ tầng cơ sở chưa được đầu tư đồng bộ, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến chưa cao, kỹ thuật, tay nghề lao động còn hạn chế. Hoạt động tiểu thủ công nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất, mặt hàng sản phẩm bước đầu được đầu tư đa dạng hơn, tuy nhiên chất lượng và kiểu dáng vẫn còn hạn chế, chưa tạo ra sức cạnh tranh cao trên thị trường; dự án đầu tư lưới điện nguồn vốn mới đáp ứng 30%, hàng năm cấp rất hạn chế.
- Công tác giải phóng mặt bằng và chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, có trình tự thủ tục thu hồi phức tạp, kéo dài đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ triển khai thực hiện của Dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Điện Biên giai đoạn 2018 - 2020, cũng như tiến độ đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện và các dự án đầu tư khác. Nguồn vốn để đầu tư phát triển, cải tạo và nâng cấp lưới điện còn hạn chế chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách Trung ương cấp cho tỉnh để thực hiện dự án điện nông thôn. Trong khi khối lượng đầu tư lưới điện nông thôn trên địa bàn tỉnh là rất lớn.
Nguồn: Sở Công Thương tỉnh Điện biên tháng 8/2020.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT