Để thực hiện các hoạt động khuyến công trong giai đoạn 2014 - 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2380/QĐ-UBND ngày 06/10/2016 về việc phê duyệt Chương trình khuyến công tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 19/2017/QĐ-UBND ngày 25/4/2017 về việc ban hành Quy định về xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch, đề án mức hỗ trợ và quản lý, sử dụng kinh phí khuyến công địa phương trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và Quyết định số 03/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020 về việc ban hành Quy chế quản lý kinh phí khuyến công và quy định mức chi cho các hoạt động khuyến công địa phương trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Hoạt động khuyến công của tỉnh luôn bám sát mục tiêu, nội dung chương trình khuyến công từng giai đoạn của Trung ương, hỗ trợ có trọng tâm trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế của địa phương. Ngành nghề được hỗ trợ gắn trực tiếp với nguồn nguyên liệu, lao động tại địa phương, góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Hoạt động đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp không những giúp cho cơ sở công nghiệp nông thôn chủ động về lao động có chất lượng mà còn tạo việc làm, thu nhập cho nhiều lao động nông thôn.
Những mục tiêu của hoạt động khuyến công tại Quyết định số 1288/QĐ TTg ngày 01/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 2380/QĐ-UBND ngày 06/10/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã và đang được thực hiện, khẳng định được vai trò quan trọng, động viên và huy động các nguồn lực vào đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn theo quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới.
Trong 7 năm vừa qua (giai đoạn 2014 - 2020), hoạt động khuyến công của tỉnh bước đầu đã đạt được một số kết quả.
Tỉnh tổ chức thực hiện 02 kế hoạch và 147/152 đề án với tổng số tiền là 78.867 triệu đồng, trong đó ngân sách hỗ trợ 13.795,79 triệu đồng, đơn vị thụ hưởng đóng góp là 65.071,21 triệu đồng, cụ thể: chương trình khuyến công quốc gia hỗ trợ thực hiện 11 đề án với tổng kinh phí là 23.236,29 triệu đồng, trong đó kinh phí khuyến công quốc gia hỗ trợ 3.805,6 triệu đồng, đơn vị thụ hưởng đóng góp 19.430,69 triệu đồng; chương trình khuyến công địa phương thực hiện 02 kế hoạch và 136 đề án, với tổng số tiền là 55.630,71 triệu đồng, trong đó kinh phí khuyến công địa phương hỗ trợ 9.990,19 triệu đồng, đơn vị thụ hưởng đóng góp 45.640,52 triệu đồng.
Ngoài ra, tỉnh còn thực hiện 01 Dự án Sản xuất thử nghiệm tỉnh dầu sả chanh, với kinh phí hỗ trợ (chương trình khuyến công địa phương hỗ trợ) là 87,8 triệu đồng. Hợp tác xã đóng góp 150 triệu đồng; chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ thực hiện 01 nhiệm vụ tuyên truyền về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên địa bàn tỉnh với số tiền 150 triệu đồng.
Trong các chương trình hoạt động khuyến công của tỉnh như: hỗ trợ đào tạo nghề, truyền nghề và nâng cao tay nghề; hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý; tư vấn, hỗ trợ thông tin về các chính sách phát triển công nghiệp giúp cho các cơ sở công nghiệp nông thôn; xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyền giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật; hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu; hỗ trợ liên doanh, liên kết hợp tác kinh tế và phát triển các cụm công nghiệp… đặc biệt nổi bật nhất là chương trình xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật đã đem lại những hiệu quả thiết thực cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh trong việc mạnh dạn đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ để phát triển sản xuất. Tỉnh đã thực hiện 103 đề án, với số tiền hỗ trợ là 10.720,2 triệu đồng, trong đó, chương trình khuyến công quốc gia hỗ trợ thực hiện 09 đề án với số tiền 3,106,6 triệu đồng; chương trình khuyến công địa phương hỗ trợ thực hiện 94 đề án với số tiền 7.613,6 triệu đồng. Các đề án hỗ trợ chủ yếu tập trung vào các ngành nghề như: ngành công nghiệp cơ khí, gia công kim loại, ngành chế biến thực phẩm, ngành xay xát, chế biến lương thực, ngành chế biến lâm sản, ngành công nghiệp hóa chất, công nghiệp sản xuất dược liệu. Qua đó, tỉnh đã giải quyết việc làm cho khoảng 1.500 lao động, giúp các cơ sở sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất sản xuất từ 15 % đến 40 %, giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong công nghiệp. Điển hình là Đề án “Xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất gạch không nung” trên địa bàn thị xã Ngã Năm với tổng kinh phí thực hiện là 4.210,1 triệu đồng, trong đó kinh phí khuyến công quốc gia hỗ trợ 297,6 triệu đồng, kinh phí đổi ứng của đơn vị thụ hưởng là 3.912,5 triệu đồng.
Tiếp đến là chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu. Tỉnh thực hiện 02 kể koạch và 05 đề án tham gia hội chợ ngoài tỉnh nhằm hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, sản phẩm công nghiệp nông thôn. Vận động 70 doanh nghiệp, cơ sở tham gia hội chợ. Tổ chức 02 đợt bình chọn và cấp Giấy chứng nhận nhằm tôn vinh các sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh; hỗ trợ 25 lượt doanh nghiệp, cơ sở đăng ký tham gia bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp khu vực, cấp quốc gia. Kết quả có 41 doanh nghiệp, cơ sở tham gia các kỳ hội chợ với 70 gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm; 43 sản phẩm được cấp giấy chứng nhận cho công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh; 08 sản phẩm được cấp giấy chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp khu vực và 05 sản phẩm được cấp giấy chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp quốc gia. Tổng kinh phí hỗ trợ thực hiện là 658,4 triệu đồng. Chương trình này đã giúp các doanh nghiệp có hướng đầu tư đúng, hiệu quả, nâng cao năng lực quản lý, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhất là các sản phẩm tham gia Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) phục vụ xuất khẩu, gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường, từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Còn hoạt động hỗ trợ cung cấp thông tin về các chính sách phát triển công nghiệp, khuyến công. Tỉnh đã thực hiện 10 đề án thông tin tuyên truyền với với tổng kinh phí hỗ trợ thực hiện là 592,95 triệu đồng. Qua đó, tỉnh xây dựng 34 chuyên trang đăng trên Bảo Sóc Trăng; xây dựng và phát hành 200 quyển cẩm nang tổng hợp các văn bản khuyến công; in 2.500 tờ gấp; đặt mua và cấp phát 13.600 tờ báo tuyên truyền về hoạt động khuyển công và thực hiện 34 chương trình truyền hình/truyền thanh trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Thực hiện 01 đề án khảo sát, thu thập thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu công nghiệp nông thôn năm 2018 và khảo sát bổ sung năm 2019, kết quả thu thập dữ liệu có 3.209 cơ sở công nghiệp nông thôn. Ngoài ra, tỉnh thực hiện 01 nhiệm vụ về tuyên truyền sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thuộc chương trình mục tiêu quốc gia với số tiền 150 triệu đồng, với hình thức phát hành 1.000 tờ rơi; tổ chức 01 Hội thảo có 100 người tham dự; in 06 pano tuyên truyền về tiết kiệm năng lượng tại trung tâm một số huyện, thị, thành phố, khu, cụm công nghiệp và các khu dân cư; vận động 1.000 hộ gia đình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động khuyến công của tỉnh vẫn còn những khó khăn và hạn chế :
Khó khăn lớn nhất đối với việc triển khai các hoạt động khuyến công là đối tượng hỗ trợ đa phần là các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp nhỏ và vừa, siêu nhỏ, sản xuất quy mô nhỏ lẻ, năng lực quản lý và tiềm lực tài chính hạn chế nên khó khăn trong việc đổi mới, ứng dụng máy móc tiên tiến đồng bộ hiện đại vào sản xuất.
Các văn bản hướng dẫn, thực hiện chính sách trong lĩnh vực khuyến công mặc dù đã được bổ sung, sửa đổi nhưng chưa theo kịp với nhu cầu thực tế. Công tác khảo sát nhu cầu cũng như tiếp cận chính sách khuyến công của một số cơ sở công nghiệp nông thôn còn hạn chế.
Nguồn lực tài chính một số cơ sở công nghiệp nông thôn còn hạn chế, trong đó có một vài cơ sở khi được phê duyệt kinh phí hỗ trợ, cơ sở thực hiện một phần hoặc từ chối không thực hiện làm ảnh hưởng đến hoàn thành kế hoạch năm cũng như kế hoạch của giai đoạn.
Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế trên là do:
Nhận thức của một số cấp, ngành, cán bộ về hoạt động khuyến công chưa sâu, chưa thấy rõ vai trò tác động tích cực của hoạt động khuyến công trong việc thúc đẩy phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, từ đó công tác phối hợp tuyên truyền giữa các cấp ngành về hoạt động này còn hạn chế, chưa tạo được sự lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp để đăng ký tham gia.
Nghiệp vụ của một số cán bộ làm công tác khuyển công còn hạn chế, nhất là trong lĩnh vực tư vấn hướng dẫn lập đề án, dự án và quy trình thủ tục thanh quyết toán còn lúng túng. Cán bộ làm công tác khuyến công cấp huyện còn mỏng, chưa được bố trí đầy đủ hoặc kiêm nhiệm và thường xuyên thay đổi.
Những bài học kinh nghiệm
Tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, chính sách khuyến công đến các tổ chức, nhân dân, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn để chủ động tham gia chương trình;
Nâng cao vai trò công tác quản lý nhà nước về khuyến công, nâng cao trình độ cán bộ làm công tác khuyến công. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về khuyến công từ Trung ương đến địa phương, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả hoạt động khuyến công, tập trung các đề án khuyến công có trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ các ngành nghề thuộc thế mạnh của địa phương./.
Nguồn: Báo cáo của UBND tỉnh Sóc Trăng.
Đỗ Thị Bích Thủy
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại