Bằng nguồn kinh phí khuyến công quốc gia, khuyến công địa phương và nguồn kinh phí của các doanh nghiệp, tỉnh Bình Phước đã triển khai các hoạt động khuyến công cụ thể như sau:
Về hỗ trợ đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề: Tổ chức 7 lớp đào tạo nghề cho 225 lao động tại các cơ sở công nghiệp nông thôn (CNNT), trong đó: 01 lớp đào tạo nghề dệt thổ cẩm cho 45 lao động, 04 lớp đào tạo nghề chế biến hạt điều cho 120 lao động, 02 lớp đào tạo nghề chế biến gỗ cho 60 lao động.
Về hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý cho các cơ sở CNNT: Tổ chức 03 lớp đào tạo khởi sự doanh nghiệp và nâng cao năng lực quản lý cho 120 học viên là đoàn viên thanh niên, lãnh đạo quản lý, chủ các cơ sở CNNT, trong đó: 02 lớp khởi sự doanh nghiệp cho 90 học viên, 01 lớp nâng cao năng lực quản lý cho 30 học viên; Tổ chức 04 hội nghị cho 750 đại biểu là cán bộ quản lý nhà nước, các cơ sở CNNT, các ngân hàng thương mại, trong đó: 01 hội nghị về kết nối giữa các cơ sở CNNT với ngân hàng cho 100 đại biểu; 03 hội nghị về chế biến hạt điều xuất khẩu 650 đại biểu.
Về hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất (bao gồm cả đề án điểm)
Hỗ trợ 05 cơ sở CNNT xây dựng 05 mô hình trình diễn kỹ thuật phổ biến công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới trong các lĩnh vực chế biến điều, sản xuất ngói không nung; hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại vào sản xuất cho 92 cơ sở CNNT trong các lĩnh vực chế biến hạt điều, chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến thực phẩm. Mô hình tiêu biểu là xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sản phẩm điều theo công nghệ mới cho Công ty TNHH MTV Sản xuất thương mại dịch vụ Thành Phát - là một trong những mô hình tiêu biểu, cụ thể như thay thế dây chuyền sản xuất hạt điều bản tự động bằng dây chuyền sản xuất tự động nhằm tăng công suất, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu. Làm ra sản phẩm sạch, đáp ứng được nhu cầu của thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường có yêu cầu cao về chất lượng hạt điều như các thị trường EU, Mỹ, Nhật. Giảm chi phí về thời gian tăng tính an toàn trong sản xuất chế biến, đảm bảo vệ sinh trong khâu chế biến hạt điều, nâng cao giá trị hạt điều. Giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp nông thôn nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng về các sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của tỉnh. Đây là mô hình tiên tiến, hiện đại trong sản xuất sản phẩm hạt điều, gắn sản xuất thân thiện với môi trường.
Về hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu: Tổ chức 02 Hội chợ triển lãm, trong đó: 01 Hội chợ hàng CNNT khu vực Đông Nam Bộ - Bình Phước năm 2016 với 228 gian hàng; 01 Hội chợ tạm giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia với 100 gian hàng; hỗ trợ tổ chức các đoàn tham gia 25 hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, với 125 lượt cơ sở CNNT tham gia; duy trì 01 gian hàng trưng bày và giới thiệu sản phẩm CNNT. Hỗ trợ 02 cơ sở CNNT xây dựng gian hàng trưng bày và giới thiệu sản phẩm; đã tổ chức 03 lần bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu trên địa bàn tỉnh và tham gia bình chọn sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp khu vực phía Nam và cấp quốc gia. Kết quả sau 03 lần tổ chức có 12 lượt sản phẩm đạt sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp quốc gia; 17 lượt sản phẩm đạt sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp khu vực; 78 lượt sản phẩm đạt sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh. Năm 2020 sẽ tiếp tục tổ chức bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh, dự kiến có khoảng 40 sản phẩm tham gia bình chọn.
Về hỗ trợ cung cấp thông tin về các chính sách phát triển công nghiệp nông thôn, khuyến công: Phát hành 18 Bản tin Công Thương, phát sóng 42 Chuyên mục Khuyến công trên sóng truyền hình; tuyên truyền hoạt động khuyến công Bình Phước trên Báo Công Thương. Xây dựng và duy trì trang thông tin điện tử (website) của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp, xây dựng 01 cơ sở dữ liệu về công nghiệp nông thôn.
Về hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động khuyến công: Tổ chức 03 hội nghị tổng kết về hoạt động khuyến công, trong đó: 01 hội nghị tổng kết đánh giá 10 năm hoạt động khuyến công Bình Phước; 01 hội nghị tổng kết Chương trình khuyến công địa phương giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Phước và 01 hội nghị tổng kết đánh giá kết quả thực hiện đề án khuyến công điểm “ Hỗ trợ cơ sở công nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Bình Phước đầu tư phát triển chế biến hạt điều giai đoạn 2018 - 2020 ” (dự kiến tổ chức vào quý IV năm 2020). Tổ chức đoàn cán bộ tham dự hội nghị đánh giá tình hình thực hiện Chương trình khuyến công giai đoạn 2014 - 2018 do Bộ Công Thương tổ chức.
Tổng nguồn kinh phí thực hiện hoạt động khuyến công trong giai đoạn 2014 - 2020 là: 95.678,06 triệu đồng, trong đó có nguồn kinh phí khuyến công quốc gia:14.339 triệu đồng; kinh phí khuyến công địa phương:14.536 triệu đồng và vốn đối ứng của đơn vị thụ hưởng: 66.803,06 triệu đồng.
Hoạt động khuyến công của tỉnh Bình Phước trong giai đoạn 2014 - 2020 đã từng bước khẳng định được vai trò, vị thế trong cộng đồng doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như: số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp không ngừng tăng trưởng cả về số lượng, quy mô, chất lượng, trình độ quản lý và tay nghề của người lao động đã được nâng lên đáng kể.
Các chương trình khuyến công đã được triển khai đồng bộ, mang lại hiệu quả thiết thực; nội dung hỗ trợ khuyến công luôn gắn với nhu cầu thực tế của các cơ sở CNNT; tạo sự nhìn nhận mới về các dịch vụ hỗ trợ của Nhà nước; thực hiện gắn kết, cầu nối cho doanh nghiệp - doanh nghiệp, doanh nghiệp - Nhà nước, doanh nghiệp - thị trường... các cơ sở CNNT sau khi được hỗ trợ đã đẩy mạnh sản xuất, phát triển thêm nhiều thị trường mới đã thúc đẩy sản xuất công nghiệp nói chung và CNNT nói riêng phát triển theo định hướng của tỉnh.
Hoạt động khuyến công đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện phân công lại lao động theo hướng công nghiệp hóa nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, hoạt động khuyến công vẫn gặp những khó khăn và hạn chế như:
Công tác xây dựng kế hoạch, để xuất các đề án khuyến công còn mang tính nhỏ lẻ, nội dung chưa được đa dạng. Một số đề án tính khả thi chưa cao, do đó vẫn còn các đề án phải điều chỉnh trong năm, cá biệt có một số đề án phải ngừng thực hiện vì không triển khai được.
Nguồn nhân lực làm công tác khuyển công còn thiếu, chưa đáp ứng đủ so với thực tế, chưa có mạng lưới khuyến công viên tại các huyện, thị, thành phố, hiện nay mới có cán bộ của các Phòng Kinh tế, Kinh tế và Hạ tầng kiêm nhiệm làm công tác khuyến công nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các đề án.
Kinh phí của Trung ương và địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ của các cơ sở CNNT.
Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trên là do:
Công tác xây dựng kế hoạch khuyến công được thực hiện vào tháng 6 của năm trước, trong khi đó các cơ sở CNNT trên địa bàn tỉnh chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, thường không có kế hoạch dài hạn nên dễ có biến động trong quá trình đầu tư. Mặt khác, ảnh hưởng của giá cả thị trường đối với nguồn nguyên vật liệu đầu vào nên cũng ảnh hưởng phần nào đến quá trình đầu tư của các cơ sở CNNT. Vì vậy một số cơ sở CNNT đăng ký hỗ trợ từ nguồn kinh phí khuyến công đã không triển khai thực hiện theo kế hoạch đã được phê duyệt.
Chưa có mạng lưới khuyến công viên, mặt khác, cán bộ phụ trách công tác khuyến công ở cấp huyện, thị thường xuyên thay đổi, không ổn định, do đó việc nắm bắt chính sách khuyến công để tư vấn các cơ sở CNNT đăng ký nhu cầu hỗ trợ từ nguồn kinh phí khuyến công còn hạn chế.
Kinh phí khuyến công hàng năm chưa được bố trí đủ theo chương trình khuyến công giai đoạn được phê duyệt.
Từ kết quả hoạt động khuyến công trên, tỉnh đã rút bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, tích cực và chủ động trong việc tiếp cận các cơ sở CNNT nhằm nắm bắt nhu cầu, tư vấn và hỗ trợ các cơ sở CNNT tiếp cận và thụ hưởng chính sách khuyến công.
Thứ hai, tập trung hỗ trợ đầu tư một số dự án có lợi thế cạnh tranh, điển hình để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cho sự phát triển của từng ngành, nghề. Từ đó sẽ tạo ra sự lan tỏa cho nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác.
Thứ ba, cán bộ lãnh đạo cần phải có tầm nhìn chiến lược, phán đoán nhanh nhạy về sự biến động của thị trường và xu hướng phát triển của khoa học.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về khuyến công, khuyến khích phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp nông thôn thống qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ năm, thường xuyên củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức, đầu tư cơ sở vật chất và phương tiện làm việc tương xứng, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác khuyến công./.
Nguồn:Báo cáo của UBND tỉnh Bình Phước
Đỗ Thị Bích Thủy
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại