Công nghiệp tiếp tục là điểm sáng của tỉnh Hà Tĩnh

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Công nghiệp tiếp tục là điểm sáng của tỉnh Hà Tĩnh

03/07/2020

Trong những năm qua, nền kinh tế tỉnh Hà Tĩnh đạt được nhiều kết quả quan trọng. Giai đoạn 2010 - 2019, tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt 12,33%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng; GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 62,1 triệu đồng  (tương đương 2.699 USD). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 3,41 tỷ USD; trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 850 triệu USD, tăng gấp 13,17 lần so với năm 2010 và gấp 6,85 lần so với năm 2015. Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 13.250 tỷ đồng, bằng 100,4%  dự toán, bằng 103,6% so với năm 2018.

Trong đó, công nghiệp tiếp tục trở thành điểm sáng của tỉnh. Hà Tĩnh lấy công nghiệp làm động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiếp tục có bước phát triển đột phá cả về quy mô và năng lực sản xuất. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2010-2019  bình quân tăng 35,20%/ năm; năm 2019 giá trị sản xuất đạt 75.800 tỷ đồng  (theo giá so sánh năm 2010), tăng gấp 15,09 lần so với năm 2010 và tăng gấp 6,12 lần so với năm 2015. Tỷ trọng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp trong  GRDP của tỉnh tăng từ 5,65% năm 2010 lên 37,3% vào năm 2019. Cơ cấu sản xuất nội ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo và sản xuất phân phối điện. Đặc biệt nhất là tình hình phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm của tỉnh trong thời gian vừa qua.

Thứ nhất,  ngành công nghiệp luyện kim, sắt, thép trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gắn liền với Khu liên hợp Gang thép và Cảng Sơn Dương Formosa Hà Tĩnh của Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa  Hà Tĩnh (FHS) tại Khu kinh tế (KKT) Vũng Áng, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh, công suất giai đoạn 1 (gồm 02 lò cao) là 7,1 triệu tấn thép năm của Công ty FHS. Các sản phẩm chính của dự án là thép cuộn cán nóng, thép dây, phôi thép, gang thỏi và sản phẩm phụ như than cốc, hắc ín, xỉ lò cao, dầu nhẹ, hóa chất công nghiệp... Đây là những sản phẩm mới, có chất lượng cao, đóng góp lớn vào  sự gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh từ năm 2017 đến nay. Ngoài dự án Formosa, tháng 9/2019, Công ty Cổ phần Gang thép Vũng Áng  đề xuất đầu tư dự án Nhà máy luyện gang thép công suất 500.000 tấn/ năm tại KKT Vũng Áng  (sau khi mua lại tài sản dự án của Nhà máy thép của Công ty cổ phần gang thép Hà Tĩnh); hiện nay Ban quản lý KKT tỉnh đang thực hiện các bước quy trình thẩm định Dự án

Việc hình thành ngành công nghiệp này có những bước đi vững chắc. Năm 2017, đã sản xuất được 1,6 triệu tấn thép; năm 2018 sản xuất được gần 3.9 triệu tấn thép và năm 2019 sản xuất được 4,85 triệu tấn thép.

Thứ hai, công nghiệp bia, rượu và nước giải khát: Toàn tỉnh có hơn 1500 cơ sở sản xuất các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát trên địa bàn: giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 đạt 138,85 tỷ đồng,  đến năm 2018 tăng lên 540 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010). Hàng năm cung cấp cho thị trường khoảng 60 triệu lít bia, 5 triệu lít rượu các loại, 10 - 12 triệu lít nước khoáng và hàng triệu lít nước tinh khiết, nước lọc. Sản phẩm bia, rượu và nước giải khát mang lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trên địa bàn. Bên cạnh sự gia tăng giá trị sản xuất, nộp ngân sách cho nhà nước, còn tạo việc làm ổn định cho hàng ngàn lao động có mức thu nhập cao trong tất cả các khâu sản xuất, cung ứng, phân phối, vận tải, nhờ vậy đã có tác động tích cực, góp phần thúc đẩy các ngành khác, như: nông nghiệp, giao thông vận tải, cơ khí, hóa sinh, sản xuất bao bì... cùng phát triển. Công tác đổi mới công nghệ, thiết bị đã được quan tâm đầu tư nên một số sản phẩm về bia, rượu, nước giải khát đã được khẳng định trên thị trường. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đã quan tâm làm tốt công tác an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo tại các địa phương.

Thứ ba, ngành công nghiệp dệt, may: Toàn tỉnh có hơn 1.100 cơ sở sản xuất dệt, may và đã tạo việc làm thường xuyên cho hơn 3.000 lao động. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 đạt 140 tỷ đồng và đến năm 2018 đã đạt 969,4 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2010 - 2018 là 31,8%/ năm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2011 mới đạt gần 01 triệu USD thì đến năm 2018 đạt 10,1 triệu USD. Một số dự án đã đem lại hiệu quả cho ngành như  Nhà máy sợi Vinatex - Hồng Lĩnh tại cụm công nghiệp (CCN) Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh: Công ty CP May Hà Tĩnh; Nhà máy may MTV tại CCN Bắc Cẩm Xuyên... trong thời gian vừa qua, UBND tỉnh đã chấp thuận một số nhà máy may có quy mô lớn như Nhà máy may Haivina Hồng Lĩnh tại CCN Nam Hồng với công suất 9,9 triệu sản phẩm/ năm; Nhà máy may Pro Sports Nghi Xuân với công suất hơn 18,396 triệu sản phẩm/ năm; Nhà máy sản xuất hàng may mặc xuất khẩu APPARELTECH Hà Tĩnh với công suất 5 triệu sản phẩm/ năm...

Thứ tư, ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản: Hà Tĩnh rất chú trọng phát triển ngành chế biến lâm sản do ngành này thời gian qua đã có những đóng góp lớn  vào  giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của tỉnh. Đây cũng là nhóm ngành giúp giải quyết việc làm trực tiếp và gián tiếp cho hàng chục nghìn lao động địa phương. Để nâng cao hiệu quả từ việc chế biến sâu sản phẩm rừng trồng, tỉnh đã quy hoạch và thu hút đầu tư dự án chế biến gỗ MDF/ HDF, OKAL/OSB.

 Khi 02 dự án đi vào hoạt động sẽ giải quyết đầu ra cho hàng chục nghìn hecta rừng trồng của người dân trên địa bàn tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Hiện tại, Hà Tĩnh có khoảng 2.800 cơ sở sản xuất chế biến đồ gỗ, bao gồm cưa xẻ, chế biến ván bóc, ván ép, ván sàn, ghép thanh, dăm gỗ, mộc dân dụng, văn phòng, đồ gỗ nội thất và gia công các sản phẩm từ gỗ phân bổ hầu khắp địa bàn cả tỉnh, song tập trung chủ yếu tại các huyện miền núi và các làng nghề truyền thống như: Thái Yên, Yên Huy, Trường Sơn...

Đối với các sản phẩm từ chế biến nông sản như xay xát lúa, gạo, ngô, chế biến sản phẩm từ gạo, ngô: toàn tỉnh có hơn 2.700 cơ sở chế biến xay xát lúa, gạo ngô, phân bổ khắp toàn tỉnh, tuy nhiên, tập trung nhiều ở các huyện thuộc vùng đồng bằng như: Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê. Ngoài ra, còn có 759 cơ sở chế biến bún, bánh tráng, miến, phân bố rải rác khắp tỉnh, trong đó tập trung nhiều ở TP. Hà Tĩnh (185 cơ sở), Hương Khê (113 cơ sở) và có 37 cơ sở sản xuất đậu phụ, 125 cơ sở sản xuất kẹo lạc, cuđơ,...

Đối với các sản phẩm chế  biến từ thủy hải sản: hiện trên địa bàn tỉnh có 290 cơ sở chế biến bảo quản thủy sản, phân bổ chủ yếu ở các huyện ven biển Kỳ Anh, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên, Lộc Hà, Thạch Hà. Ngoài ra, còn có 2 doanh nghiệp (Công ty CP Thủy sản Nam Hà Tĩnh và Công ty CP XNK Thủy sản Hà Tĩnh)  có quy mô vừa đầu tư  máy móc, thiết bị và sử dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất; các cơ sở  đã và đang từng bước đầu tư máy móc, thiết bị công nghệ mới, sử dụng (năng lượng mặt trời) và ngày càng quan tâm đến mẫu mã, nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm. Một số cơ sở đã tiếp cận các thị trường nước ngoài, đưa doanh thu từ xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao trong tổng doanh thu của cơ sở. Tuy nhiên, do sự cố môi trường biển năm 2016 đã ảnh hưởng lớn đến phát triển công nghiệp chế biến thủy sản cũng như các sản phẩm muối trên địa bàn.

Thứ năm, công nghiệp khai thác khoáng sản : Trên địa bàn tỉnh có khoảng 80 đơn vị đã và đang khai thác, chế biến khoáng sản tại 80 mỏ trên địa bàn, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hơn 1.200 lao động. Tuy vậy, do nhu cầu sử dụng khoảng sản làm vật liệu xây dựng  thông thường ở một số địa phương giảm mạnh công nghệ khai thác, chế biến khoảng sản còn lạc hậu đã dẫn đến nhiều hệ lụy, như gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn lao động, năng suất lao động thấp, hiệu quả thu hồi sản phẩm thấp, thất thoát tài nguyên.

Về quặng sắt: Hà Tĩnh có mỏ sắt Thạch Khê lớn nhất khu vực Đông Nam Á, với trữ lượng ước tính khoảng 544 triệu tấn. Ngoài ra, còn có một số mỏ quặng nằm tại các huyện: Hương Sơn, Vũ Quang, Đức Thọ, Can Lộc có tổng trữ lượng khoảng 7 - 8 triệu tấn.

Các khoáng sản khác như titan, mang an đã khai thác gần hết; chỉ còn một số điểm quy hoạch phân tán, nhỏ lẻ, hiệu quả khai thác không cao nên không có doanh nghiệp quan tâm đầu tư. Một số khoáng sản khác như than bùn, than đá, cát thủy tinh, quarzit… nằm rải rác ở các huyện khác trong tỉnh nên khó khăn trong khai thác, chế biến.

Thứ sáu, công nghiệp sản xuất vật liệu dựng (VLXD): Thời gian qua, các sản phẩm VLXD trên địa bàn Hà Tĩnh phát triển đa dạng, gồm: gạch, ngói, bê tông, tấm lợp. Tính đến tháng 6/2019, toàn tỉnh có khoảng 03 cơ sở sản xuất tấm lợp: 55 cơ sở sản xuất, cung ứng đá, cát xây dựng: 08 cơ sở sản xuất bê tông thương phẩm; 24 cơ sở sản xuất tuynel  (với sản phẩm gạch, ngói nung từ 236,5 triệu viên năm 2011 giảm còn 132,4 triệu viên năm 2017) và 10 nhà máy sản xuất gạch, ngói không nung với sản lượng đạt khoảng 150 - 200 triệu viên/năm, trong đó đáng kể nhất là nhà máy gạch ngói không nung, công nghệ cao tại CCN Bắc Cẩm Xuyên của Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng Trần Châu với sản lượng đạt khoảng 110 triệu viên  gạch/ năm và 10 triệu viên ngói màu/năm. Bên cạnh đó, các dự án sản xuất bê tông thương phẩm, trạm trộn bê tông, gạch terrazzo,... đã được quan tâm đầu tư nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng trong thời gian qua, nhất là phục vụ dự án trong Khu Kinh tế Vũng Áng và còn nhiều cơ sở sản xuất vật liệu nhỏ lẻ khác.

Mặc dù, hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh trong giai đoạn 2016 - 2019 đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên sự tăng trưởng của ngành chưa thực sự bền vững; chất lượng tăng trưởng thấp, tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, nguyên liệu đầu vào và nhân công lao động; hàm lượng khoa học công nghệ đóng góp vào giá trị tăng trưởng chưa nhiều. Công nghệ sản xuất, thiết bị máy móc còn lạc hậu, nhất là trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, sản phẩm hàng hóa chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa  xây dựng được thương hiệu hoặc đã xây dựng nhưng không có chiến lược phát triển thương hiệu. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:

Xuất phát điểm kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh thấp, đồng thời liên tục phải đối mặt với diễn biến thất thường của thời tiết, thiên tai, đã làm gia tăng thiệt hại về kinh tế - xã hội, dẫn đến hạn chế khả năng chi cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế của tỉnh, trong đó có hạ tầng cho phát triển công nghiệp.

Mặc dù đã có Quy hoạch phát triển công nghiệp chung của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, song sự điều phối, gắn kết giữa các tỉnh, thành phố trong Vùng chưa hiệu quả do chưa thiết lập được cơ chế điều phối chung để thực hiện.

Các KKT, KCN, CCN và các dự án công nghiệp trọng điểm đang trong thời kỳ đầu tư nên nhu cầu phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp vệ tinh chưa cao, công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp có sự phát triển nhưng thị trường tiêu thụ các sản phẩm không ổn định, khó cạnh tranh với các sản phẩm của các tỉnh, thành phố và các nước trong khu vực; việc tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị sản xuất với các trung tâm lớn còn nhiều hạn chế.

Sự phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước của các sở, ngành và địa phương còn hạn chế, do vậy việc nắm bắt, giải quyết các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp có lúc chưa kịp thời; hoạt động của các đơn vị có chức năng tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả chưa cao, nhất là hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư.

Một số địa phương chưa thật sự quan tâm phát triển công nghiệp, đặc biệt trong việc huy động các nguồn lực đầu tư hạ tầng, thu hút các dự án đầu tư phát triển công nghiệp; nguồn lực đầu tư hạ tầng thiết yếu các khu, CCN và làng nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) còn rất hạn chế, dẫn đến việc thu hút các dự án chưa cao, nhiều khu, cụm công nghiệp đã có doanh nghiệp hoạt động nhưng hạ tầng không đồng bộ, thiếu hệ thống xử lý chất thải, nên quá trình sản xuất đã gây ô nhiễm môi trường.

Công tác lập báo cáo đánh giá tác động môi trường các dự án đầu tư (ĐTM) cơ bản đúng quy định, song việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện ĐTM và kế hoạch bảo vệ môi trường còn bất cập. Các cơ quan chức năng chưa quyết liệt trong việc xử lý vi phạm, yêu cầu các cơ sở công nghiệp phải di dời để đảm bảo môi trường trong các khu dân cư; công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên.

Hầu hết các cơ sở công nghiệp đều có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính yếu, công nghệ ở mức trung bình thấp, nhiều lĩnh vực sản xuất chủ yếu là gia công hoặc mới chỉ ở giai đoạn lắp ráp khá đơn giản; khả năng chuyển đổi ngành nghề, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đầu tư đổi mới công nghệ, liên kết làm vệ tinh sản xuất cho các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp lớn còn hạn chế; chưa quan tâm tới công tác xây dựng thương hiệu, chưa áp dụng hiệu quả công nghệ thông tin để quảng bá hình ảnh về sản phẩm. Lao động công nghiệp phần lớn chưa qua đào tạo, chủ yếu từ nông thôn, năng suất lao động của công nhân thấp, chưa đáp ứng được với các công việc đòi hỏi tay nghề cao.

Phát triển công nghiệp - TTCN mới quan tâm về bề rộng, chưa phát triển về chiều sâu, thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, trình độ công nghệ và việc ứng dụng máy móc kỹ thuật mới còn hạn chế, chưa có các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp hạt nhân đủ mạnh, nhất là trong các cụm công nghiệp, làng nghề nên sức cạnh tranh sản phẩm thấp, chưa có các sản phẩm thật sự tiêu biểu, đặc trưng nên dễ mất thị trường, phát triển không ổn định và thiếu bền vững./.

Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Hà Tĩnh.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại

BÀI VIẾT KHÁC