CHỢ VIỆT NAM: THỰC TIỄN, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP (P2) Phần 2: Sự phát triển của mạng lưới chợ toàn quốc

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Chợ Việt Nam: Thực tiến, vấn đề và giải pháp (P2)

22/03/2023

Phần 2: Sự phát triển của mạng lưới chợ toàn quốc 

1. Tổng số và cơ cấu các loại hình chợ

1.1. Phân bố chợ theo vùng kinh tế

Theo thống kê đến năm 2021, trên địa bàn cả nước có 8.581 chợ các loại, bao gồm 236 chợ hạng 1; 902 chợ hạng 2 và 7.443 chợ hạng 3.

Phân bố chợ theo vùng kinh tế trên địa bàn cả nước như sau:

Bảng 1: Phân bố chợ theo vùng kinh tế

 

Số lượng chợ

So với tổng số (%)

Tổng số

8.581

100,0

1. Đồng bằng Sông Hồng

2.036

23,7

2. Đông Bắc bộ

1.390

16,2

3. Bắc Trung bộ & Duyên Hải Nam Trung bộ

2.359

27,5

6. Tây Nguyên

400

4,7

7. Đông Nam bộ

739

8,6

8. Đồng bằng Sông Cửu Long

1.657

19,3

Nguồn: Niên giám Thống kê 2021

Chợ tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng, riêng hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 43% tổng số chợ của cả nước. Vùng Tây Bắc Bộ, Tây Nguyên chiếm tỉ trọng thấp hơn hẳn so với các khu vực khác.

Tổng số chợ trên đây chưa tính đến số lượng không nhỏ các chợ tạm, chợ cóc được hình thành tự phát ở hầu hết các địa phương trên cả nước.

1.2. Cơ cấu các loại hình chợ

- Chợ bán lẻ phục vụ dân sinh ở các xã, phường, thị trấn, thị tứ chiếm tỉ trọng lớn, tới 95,1% trong tổng số chợ của cả nước và tỉ lệ này khá tương đồng ở các vùng kinh tế, cho thấy, tính chất bán lẻ và qui mô nhỏ là đặc trưng phổ biến của hệ thống chợ toàn quốc hiện nay.

Bảng 2: Các loại hình chợ phân theo vùng kinh tế

 

Tổng số

Chợ bán lẻ

Chợ tổng hợp bán buôn, bán lẻ hạng I

Chợ đầu mối bán buôn nông sản

Chợ biên giới

Chợ khác

1. ĐB Sông Hồng

1.472

1.422

42

8

 

 

2. Đông Bắc bộ

1.150

1.055

22

6

67

 

3. Tây Bắc bộ

243

239

0

1

3

 

4. Bắc Trung bộ

1.185

1.145

16

3

21

 

5. DH Nam Trung bộ

838

812

22

4

 

 

6. Tây Nguyên

378

366

9

1

2

 

7. Đông Nam bộ

874

813

33

4

24

 

8. ĐB Sông Cửu Long

1.579

1.489

35

17

30

8

Nguồn: Tổng hợp Phiếu điều tra mạng lưới chợ các địa phương

Xét theo từng vùng kinh tế có thể thấy, số lượng chợ bán lẻ tỉ lệ thuận với tổng số lượng chợ ở mỗi vùng. Hai vùng có nhiều chợ bán lẻ nhất là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 39,6% tổng số chợ bán lẻ cả nước. Trong khi đó, hai vùng Tây Bắc Bộ và Tây Nguyên chỉ chiếm 8,2%. Các tỉnh có nhiều chợ bán lẻ là Thanh Hoá, Nghệ An, Bình Định, thành phố Hồ Chí Minh và An Giang.

- Chợ tổng hợp bán buôn, bán lẻ hạng I: Có số lượng lớn thứ hai trong các loại hình chợ nhưng ít hơn rất nhiều so với chợ bán lẻ, chỉ chiếm 2,3% tổng số chợ toàn quốc.

Vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có số lượng chợ tổng hợp bán buôn, bán lẻ hạng I lớn nhất, ba vùng này chiếm 61,5% của cả nước. Các tỉnh có số lượng chợ nhiều nhất là Hà Tây cũ (14 chợ), thành phố Hồ Chí Minh (10 chợ), Hà Nội và Bình Định cùng có 9 chợ. Trong khi đó, cả vùng Tây Bắc Bộ không có chợ thuộc loại hình này.

- Chợ đầu mối bán buôn nông sản: Loại chợ này hiện có số lượng ít nhất, chỉ chiếm 0,6% tổng số chợ  cả nước, phân bố chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc bộ. Chợ đầu mối nông sản ở 3 vùng này chiếm 70,5% của cả nước, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long có số chợ đầu mối lớn nhất, chiếm 38,6%.

Các tỉnh tập trung nhiều chợ đầu mối nông sản là Tiền Giang (5 chợ), Thái Bình, Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre và Hậu Giang, mỗi tỉnh có 3 chợ.

- Chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu: chiếm 1,9% tổng số chợ trên phạm vi cả nước. Khu vực có chợ biên giới, của khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu nhiều nhất là vùng Đông Bắc Bộ, chiếm 45,6%  của cả nước, tiếp theo là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm 20,4%. Nhiều tỉnh ở vùng Đông Bắc bộ có đường biên giới dài với Trung Quốc, hơn nữa,  hoạt động biên mậu giữa Việt Nam và Trung Quốc đang ngày càng phát triển đã kéo theo sự phát triển của các chợ tại các xã biên giới. Riêng tỉnh Hà Giang đã có 29 chợ biên giới, cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu.

- Các loại chợ khác bao gồm chợ đêm, chợ nổi, các chợ chuyên doanh (chợ hoa, cây cảnh ...)

1.3. Đánh giá một số chỉ tiêu về mạng lưới chợ

* Mạng lưới chợ theo địa bàn xã, phường:

Bình quân chung cả nước là 0,71 chợ/xã, phường, thị trấn. Nếu so với chỉ tiêu mỗi xã, phường có ít nhất một chợ thì  con số thực tế còn  thấp.

Xét riêng từng vùng có thể thấy, khu vực phía Bắc (từ Bắc Trung Bộ trở ra) và vùng Tây Nguyên có mật độ chợ thấp hơn so với khu vực phía Nam. Hầu hết các tỉnh phía Bắc không có địa phương nào đạt chỉ tiêu một chợ trên một xã, phường và mức bình quân chung của từng vùng đều thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước. Ở các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Hoà Bình, tính trung bình khoảng 3 - 4 xã, phường mới có một chợ. Trong đó, tỉnh Lai Châu có mật độ chợ thấp nhất với 0,13 chợ/xã, phường.

Ở khu vực phía Nam, bình quân số chợ theo xã, phường của mỗi vùng cao hơn mức chung của cả nước. Có tới 13 tỉnh, thành phố đạt mức hơn 1 chợ trên một xã phường, đó là Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Tây Ninh, Đồng Nai, Bến Tre, Trà Vinh, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Trong đó, tỉnh An Giang  có mật độ chợ cao nhất là 1,73 chợ/xã, phường.

Bảng 3: Một số chỉ tiêu cơ bản về mạng lưới chợ toàn quốc

 

Tổng số chợ năm 2005

Chợ/xã, phường, thị trấn

Diện tích/chợ (km2/chợ)

Dân số/chợ (nghìn người/chợ)

Bán kính chợ (km/chợ)

1. ĐB Sông Hồng

1.472

0,65

10,06

12.250

1,79

2. Đông Bắc bộ

1.150

0,55

55,33

8.120

4,20

3.Tây Bắc bộ

243

0,41

153,65

10.543

7,00

4. Bắc Trung bộ

1.185

0,65

43,47

8.958

3,72

5. DH Nam Trung bộ

838

0,96

39,46

8.408

3,55

6. Tây Nguyên

378

0,57

144,11

12.579

6,77

7. Đông Nam bộ

874

0,84

39,75

15.391

3,56

8. ĐB Sông Cửu Long

1.579

1,02

25,17

10.928

2,83

Nguồn: Tổng hợp điều tra mạng lưới chợ

* Mạng lưới chợ theo diện tích tự nhiên:

Trên địa bàn cả nước, bình quân cứ 42,13 km2 có một chợ hay bán kính phục vụ trung bình của một chợ là 3,66 km. Có sự chênh lệch khá lớn về chỉ tiêu này giữa các vùng, các tỉnh trong cả nước.

Vùng Đồng bằng sông Hồng có diện tích phục vụ trung bình một chợ nhỏ nhất, 10,06 km2 trên một chợ hay bán kính phục vụ một chợ là 1,79 km. Thủ đô Hà Nội có chỉ tiêu về diện tích và bán kính phục vụ của một chợ thấp nhất cả nước (6,77 km2 và 1,47 km). Tuy nhiên, con số này vẫn cao hơn so với tiêu chuẩn về bán kính phục vụ của một chợ hạng III trong các đô thị (Chợ - Tiêu chuẩn thiết kế, Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam).

Tây Bắc Bộ là vùng có diện tích phục vụ trung bình một chợ lớn nhất, 153,65 km2 trên một chợ hay bán kính phục vụ một chợ là 7,00 km. Tiếp theo là vùng Tây Nguyên với 144,11 km2 và 6,77 km. Các tỉnh có diện tích và bán kính phục vụ lớn nhất là Lai Châu, Điện Biên, Kon Tum. Riêng tỉnh Lai Châu, diện tích phục vụ trung bình của một chợ lên tới 754,95 km2 và bán kính phục vụ trung bình là 15,51 km.

* Mạng lưới chợ theo dân số:

Tính bình quân một chợ phục vụ 10.768 người. Chênh lệch giữa vùng cao nhất và thấp nhất so với mức trung bình của cả nước vào khoảng 2.000 dân. Cụ thể, dân số bình quân một chợ từ 8-10 nghìn người thuộc về các vùng Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ. Dân số bình quân một chợ từ 11-12 nghìn người thuộc về các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên. Riêng vùng Đông Nam Bộ có mức chênh lệch cao hơn so với mức trung bình cả nước là 5.000 người.

Hai địa phương có mật độ dân số phục vụ cao nhất trên một chợ là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với con số lần lượt là 23.125 người và 26.062 người. Một số địa phương khác cũng có mật độ dân số phục vụ ở mức khá cao như  Điện Biên, Lai Châu, Kon Tum, Lâm Đồng, Bình Phước, Hậu Giang, Cà Mau. Các tỉnh có mật độ dân số phục vụ của một chợ thấp là Hà Giang và Bắc Cạn, chỉ khoảng trên dưới 5.000 người.

2. Tổng lượng và cơ cấu hàng hoá giao dịch qua chợ

Theo thống kê, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỉ trọng khoảng 45-50% tổng mức lưu chuyển hàng hoá, phần còn lại được lưu thông qua các loại hình thương mại khác như siêu thị, cửa hàng. Ở các địa bàn khác, nhất là ở khu vực nông thôn, hàng hoá giao dịch trên chợ chiếm tỉ trọng khá lớn, khoảng 60-70% tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên địa bàn.

Ngoại trừ các chợ đầu mối bán buôn chỉ tập trung kinh doanh một số mặt hàng nhất định, hầu hết các loại hình chợ khác có cơ cấu hàng hoá lưu thông trên chợ khá phong phú với các nhóm hàng chính là: thực phẩm tươi sống, nông sản khô, sơ chế, thực phẩm công nghệ, tạp hoá, may mặc, giày dép, kim khí - điện máy, điện tử - điện lạnh, nông cụ, vật tư nông nghiệp, trang sức đắt tiền.... tuy nhiên, tỉ trọng các nhóm hàng này rất khác nhau trong tổng lượng hàng hoá kinh doanh tại chợ và không phải chợ nào cũng kinh doanh đầy đủ tất cả các mặt hàng. Các nhóm hàng chiếm tỉ trọng lớn hơn là: nông sản, thực phẩm, tạp hoá, may mặc, giày dép. Trung bình trên chợ có khoảng 70-80% hộ kinh doanh các nhóm hàng này. Các mặt hàng điện tử, điện lạnh, hàng trang sức đắt tiền chiếm tỉ trọng nhỏ.

Cơ cấu ngành hàng kinh doanh trong một chợ cụ thể còn phụ thuộc nhiều vào qui mô chợ và địa điểm đặt chợ. Đối với các chợ qui mô lớn (hạng I, II) ở khu vực đô thị, cơ cấu hàng kinh doanh khá phong phú từ hàng nhật dụng đến các mặt hàng lâu bền. Các chợ qui mô nhỏ (hạng III), chủ yếu kinh doanh hàng nhật dụng.

Trong hầu hết các chợ, nhất là chợ ở khu vực đô thị, số hộ kinh doanh hàng nông sản, thực phẩm, đặc biệt là hàng thực phẩm tươi sống chiếm tỉ trọng lớn, khoảng từ 35-40%. Chợ vùng nông thôn, miền núi, số hộ kinh doanh hàng tạp hoá thường chiếm tỉ trọng cao nhất. Nhìn chung, tương quan giữa cơ cấu các hộ theo ngành hàng kinh doanh phụ thuộc vào mức độ đô thị hoá ở các khu vực thị trường, ở những địa bàn có mức độ đô thị hoá cao thì tỉ lệ hộ kinh doanh hàng thực phẩm tươi sống là cao nhất, ngược lại, ở những địa bàn có mức độ đô thị hoá thấp thì có tỉ lệ hộ kinh doanh tạp hoá cao nhất.

3. Chủ thể kinh doanh tại chợ và tham gia lưu thông hàng hoá qua chợ

3.1. Lực lượng tham gia kinh doanh trên chợ

Lực lượng tham gia kinh doanh trên các chợ chủ yếu là thành phần thương mại tư nhân, hợp tác xã và người sản xuất trực tiếp bán hàng. Trong đó, thành phần thương mại tư nhân (dưới hình thức các hộ kinh doanh) đóng vai trò ngày càng quan trọng. 

Người sản xuất trực tiếp bán hàng là thành phần tham gia trao đổi hàng hoá không thường xuyên trên chợ, tuy nhiên là thành phần quan trọng không thể thiếu trong hầu hết các chợ.  Đây là thành phần kinh doanh mang lại những sắc thái riêng cho các chợ, nhất là các chợ nông thôn. Đối tượng chủ yếu là nông dân, thợ thủ công trực tiếp bán sản phẩm và người kinh doanh không thường xuyên khác, trong đó, nông dân là lực lượng chiếm phần lớn.

3.2. Hộ kinh doanh trên chợ

Theo tổng hợp, trên địa bàn cả nước hiện có khoảng hơn 767.776  hộ kinh doanh cố định trên các chợ. Ngoài ra còn có các hộ kinh doanh không thường xuyên trên chợ.

Theo thống kê từ một số địa phương, hộ kinh doanh cố định trên chợ chiếm khoảng 30% số hộ thương nghiệp cá thể trên địa bàn, ở khu vực nông thôn và miền núi, tỉ lệ này lên đến 45-50%. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của đội ngũ thương nhân kinh doanh trên chợ đối với hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá tại các tỉnh, thành.

Bảng 4: Hộ kinh doanh cố định trên chợ phân theo vùng kinh tế

 

Hộ kinh doanh cố định

Hộ KD cố định bình quân/chợ

Số lượng

% so với tổng số

Cả nước

767.776

100,0

107

1. Đồng bằng Sông Hồng

156.984

20,45

107

2. Đông Bắc bộ

98.913

12,88

103

3. Tây Bắc bộ

12.531

1,63

51

4. Bắc Trung bộ

73.426

9,56

81

5. Duyên Hải nam Trung bộ

79.588

10,37

95

6. Tây Nguyên

30.934

4,03

82

7. Đông Nam bộ

170.323

22,18

210

8. Đồng bằng Sông Cửu Long

145.077

18,9

92

Nguồn: Tổng hợp điều tra mạng lưới chợ

Mức trung bình của cả nước là 107 hộ kinh doanh cố định trên một chợ và có sự chênh lệch lớn về chỉ tiêu này giữa các vùng. Những vùng có nhiều hộ kinh doanh cố định  là Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng là những vùng có bình quân hộ kinh doanh cố định trên một chợ lớn. Số hộ kinh doanh cố định bình quân trên một chợ vùng Đông Nam Bộ cao nhất, gấp 4 lần so với vùng thấp nhất là Tây Bắc Bộ. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, hộ kinh doanh cố định bình quân trên một chợ lên tới 458 hộ.

Các khu vực miền núi, Tây Nguyên, số lượng chợ phân bố khá mỏng với khoảng cách đến chợ xa và mật độ dân số phục vụ lớn, mà lực lượng kinh doanh trên chợ cũng rất nhỏ bé. Ngược lại, ở khu vực đồng bằng và thành phố, mật độ chợ dày đặc hơn và lực lượng tư thương kinh doanh trên chợ cũng đông đảo hơn.

4. Phương thức giao dịch

Phương thức giao dịch chính trên các chợ hiện nay là giao dịch truyền thống (giao ngay), các hình thức giao dịch khác hiện đại hơn như giao dịch qua hợp đồng, giao dịch kỳ hạn, triển hạn hay giao dịch qua mạng (thương mại điện tử) chưa phát triển.

Giao dịch theo phương thức truyền thống - mua bán trực tiếp (người sản xuất - người tiêu dùng, người sản xuất - thương nhân và thương nhân - người tiêu dùng) được sử dụng phổ biến ở tất cả các địa bàn và các loại hình  chợ. Theo phương thức này, giao dịch giữa những mua và người bán  thường gắn liền với sự hiện diện của hàng hoá được đem ra mua bán. Nguyên nhân chủ yếu là do tính chất kinh doanh trên chợ ở nước ta phần lớn là kinh doanh bán lẻ, hàng hoá được trao đổi  với qui mô và phạm vi nhỏ hẹp nên hình thức mua bán trao tay tỏ ra thích hợp hơn, đặc biệt là trong môi trường giao dịch bằng tiền mặt còn phổ biến.

Các phương thức giao dịch tiến bộ như giao dịch hợp đồng, giao dịch kỳ hạn, giao dịch qua mạng sẽ có điều kiện phát triển trước tiên ở các chợ đầu mối, các chợ tổng hợp bán buôn, bán lẻ tại các trung tâm thương mại của vùng, của các tỉnh, thành khi hàng hoá lưu thông qua các chợ này đạt được qui mô và phạm vi đủ lớn.

5. Tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật và thiết kế chợ

- Tiêu chuẩn về diện tích:

Diện tích đất chợ khá đa dạng, phụ thuộc phần lớn vào điều kiện mặt bằng cụ thể của từng chợ. Cùng một loại hình và qui mô, có chợ chỉ khoảng vài trăm mét, có chợ hàng nghìn hoặc hơn chục nghìn m2. Nhiều chợ ở nông thôn có qui mô nhỏ nhưng diện tích chiếm đất lại rất lớn. Ngược lại, ở đô thị diện tích chợ khá hẹp và rất khó mở rộng chợ. Thống kê của 50 tỉnh, thành phố, diện tích đất trung bình của một chợ là 2.798,3 m2, thấp hơn so với tiêu chuẩn về diện tích đất xây dựng chợ hạng III (Chợ - Tiêu chuẩn thiết kế, Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam). Nhìn chung, không có sự chênh lệch lớn về chỉ tiêu này giữa các khu vực. Các vùng có diện tích đất chợ trung bình lớn là Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam bộ, khoảng trên 3000 m2. Các vùng có diện tích trung bình một chợ thấp là Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên Hải Nam Trung bộ, khoảng 1.400 - 2.500 m2. Đáng chú ý là ở các khu vực có diện tích đất tự nhiên lớn nhưng diện tích đất chợ trung bình cũng không cao như Tây Nguyên, Tây Bắc Bộ. Điều này do qui mô hộ kinh doanh trung bình trên chợ ở các vùng này thường rất nhỏ, do chi phí san lấp mặt bằng chợ ở khu vực này cao, cũng như nhiều người dân chưa có thói quen đến chợ. 

Số liệu điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường về diện tích đất dành cho xây dựng chợ tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước cho thấy: Diện tích đất chợ ở khu vực nông thôn chiếm 73,9%, khu vực thành thị chiếm 26,1% tổng diện tích đất chợ cả nước. Số xã, phường dành từ 2000 - 5000 m2 diện tích đất cho xây dựng chợ chiếm tỉ trọng lớn nhất, chiếm khoảng 37,0% trong tổng số xã, phường được thống kê. Diện tích đất chợ trung bình cho một người dân trên phạm vi cả nước là 0,41 m2/người. Không có sự chênh lệch lớn về chỉ tiêu này giữa hai khu vực thành thị và nông thôn, diện tích chợ trung bình cho một người dân khu vực thành thị là 0,40m2/người, của khu vực nông thôn  là 0,43 m2/người. Tuy nhiên, ở khu vực đô thị, diện tích đất chợ trên một xã, phường thường lớn hơn so với khu vực nông thôn. Số xã, phường có diện tích đất chợ từ 5000 - 10.000 m2 chiếm tỉ trọng 26,5% tổng số xã, phường khu vực thành thị, trong khi của nông thôn là 19,8% tổng số xã khu vực nông thôn. Tỉ lệ tương ứng đối với diện tích đất chợ từ 10.000 m2 trở lên là 19,4% và 11,0%.

Trong từng chợ, việc dành diện tích đất cho các khu chức năng cũng khá đa dạng, tuy nhiên có thể thống kê những điểm chung như sau:                                                                                     

+ Diện tích xây dựng nhà chợ chính: ở khu vực đô thị, diện tích nhà chợ chính thường chiếm tỉ trọng lớn theo hướng tận dụng tối đa cho kinh doanh trực tiếp nên phần không gian dành cho đi lại và lựa chọn hàng hoá của khách và các công trình phụ trợ khác như kho, khu vệ sinh, khu gom rác, xử lý rác,... cũng như không gian dành cho các bộ phận chức năng kỹ thuật là không đáng kể, chưa nói đến việc dành diện tích sân vườn để tạo cảnh quan  và môi trường thông thoáng trong khu vực chợ. Hầu hết các chợ  đều thiếu hệ thống kho hàng, kho lạnh kể cả các chợ đạt qui mô hạng I. Ở các chợ xã, tuy diện tích dành cho nhà chợ chính không lớn, nhưng phần diện tích còn lại cũng không phải để xây dựng các công trình cần thiết khác, mà chủ yếu là diện tích đất để trống,...

+ Diện tích đường giao thông nội bộ và bãi xe: Diện tích giao thông nội bộ trong khu vực chợ chật hẹp, đường ra vào chợ không được phân luồng hợp lý nên khi lưu lượng người vào chợ lớn dễ gây ùn tắc làm cho giao lưu người và hàng hoá trong chợ rất khó khăn. Mặt khác, nhiều chợ không có bãi để xe hoặc có nhưng không đáp ứng được yêu cầu thuận tiện cho khách hàng ra vào chợ.

Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế lượng khách vào mua bán hàng hoá trong chợ, đồng thời gián tiếp gây ra tình trạng mua bán bên ngoài chợ, làm lãng phí hiệu suất sử dụng công trình chợ, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông và mỹ quan quanh khu vực chợ.

- Tiêu chuẩn về thiết kế chợ:

Cấu trúc chủ yếu của các chợ hiện nay bao gồm nhà lồng chợ và sân chợ. Tuy nhiên, cách bố trí không gian bán hàng, không gian dành cho khách hàng khá đa dạng và chưa được tính toán hợp lý để phù hợp với đặc điểm của mỗi ngành hàng. Đặc biệt là khu kinh doanh thực phẩm tươi sống, khu giết mổ gia súc gia cầm thường không được đầu tư để xử lý rác và nước thải trước khi ra hệ thống cống chung, gây ô nhiễm môi trường.

Cách thiết kế lô, quầy và trưng bày hàng hoá: Chưa có những qui định đồng nhất về hình thức, kiểu dáng, kích thước cho từng ngành hàng. Không gian dành cho khách lựa chọn và thử hàng hoá không đủ rộng và thuận tiện. Cách trưng bày, giới thiệu hàng hoá khá đa dạng và không đồng nhất ngay cả trong một chợ. Hàng hoá chủ yếu được sắp sếp theo chủ quan người kinh doanh. Ở nhiều chợ (kể cả chợ trung tâm huyện) hàng hoá bày bán lộn xộn, tuỳ tiện, không mỹ quan.

- Khoảng cách với đường giao thông:

Do vị trí hình thành chợ phụ thuộc nhiều vào điều kiện giao thông nên một trong những đặc điểm phổ biến của hệ thống chợ nước ta là gần đường giao thông. Trước kia, khi giao thông đường thủy phát triển, nhiều điểm chợ đặt ven sông,ven lạch sầm uất cảnh buôn bán trên bến dưới thuyền. Hiện nay, do tính thuận tiện của mạng lưới giao thông đường bộ, vị trí của các chợ mới xây dựng thường gắn với đường giao thông. Theo tổng hợp khoảng 70-80% chợ trên địa bàn cả nước có vị trí gần với các tuyến đường giao thông thuỷ, bộ.

Tuy nhiên, nhiều chợ trong số này không đảm bảo đúng khoảng cách qui định với trục đường giao thông nên khi lưu lượng người và hàng hoá qua chợ tăng đã xảy ra tình trạng khá phổ biến là người mua bán lấn chiếm lòng đường vỉa hè, ảnh hưởng đến giao thông và mỹ quan đường phố. Nhất là vào giờ cao điểm, khi mật độ người và phương tiện tham gia giao thông lớn thì tình trạng ách tắc giao thông thường xuyên xảy ra ở các điểm họp chợ. Ngoài ra, còn các nguyên nhân khách quan và chủ quan  khác như thói quen tuỳ tiện, công tác tổ chức quản lý chợ chưa tốt, do đường vào và chỗ để xe không thuận tiện nên người và hàng hoá vẫn tràn ra lòng đường...

6. Vốn đầu tư xây dựng chợ

Vốn đầu tư xây dựng chợ được huy động từ các nguồn chính: ngân sách nhà nước trung ương, địa phương, vốn đóng góp của các hộ kinh doanh trên chợ và vốn huy động từ xã hội. Vốn đầu tư xây chợ được tập trung vào một số vùng có số lượng chợ lớn. Đây cũng là những vùng có điều kiện phát triển kinh tế, có khả năng huy động vốn đầu tư từ Ngân sách địa phương cũng như từ các hộ kinh doanh lớn hơn so với các vùng khác. Đồng thời, mức đầu tư cao cũng tập trung vào các chợ có qui mô lớn ở các địa bàn trọng điểm để đáp ứng xu hướng gia tăng số hộ kinh doanh và đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật trong chợ trong khi mức đầu tư cho các chợ khác còn rất thấp.

Trên thực tế, ở nhiều địa phương, nhất là ở các tỉnh nghèo, việc phát triển hệ thống chợ còn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn. Đối với các chợ không thuộc diện ngân sách đầu tư thì chỉ có một số rất ít điểm chợ ở các khu vực trung tâm kinh tế của tỉnh có thể huy động được vốn từ các hộ kinh doanh để xây dựng và nâng cấp chợ, còn hầu hết chợ ở các địa bàn khác do lưu lượng người và hàng hoá qua chợ thấp nên không hấp dẫn người kinh doanh bỏ vốn đầu tư do khả năng sinh lời thấp. Do vậy, tình trạng cơ sở vật chất chợ ở các khu vực này rất nghèo nàn,...

Theo tổng hợp chợ được xây dựng kiên cố chỉ chiếm khoảng 15-20% tổng số chợ, trong khi các chợ ở tình trạng lán tạm hoặc chưa được xây dựng (họp ngoài trời) chiếm hơn 50%. Vấn đề đáng nói là, cơ sở vật chất các loại hình thương mại và hệ thống chợ không phát triển thì không thể kích thích được hoạt động mua bán trên thị trường, chưa nói đến việc từng bước hình thành một nền thương mại văn minh với điều kiện hạ tầng kỹ thuật có tiêu chuẩn hiện đại.

7. Tổ chức và quản lý các hoạt động của chợ

- Về cơ chế quản lý: Phần lớn các chợ trên địa bàn cả nước đều do các UBND phường, xã quản lý, ngoại trừ các chợ có qui mô lớn thường do UBND quận, huyện, thị xã quản lý. Trong công tác điều hành hoạt động kinh doanh trên chợ, các cơ quan quản lý thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua bộ phận trực tiếp quản lý chợ. Cơ chế quản lý đối với các bộ phận quản lý chợ cũng khác nhau tuỳ theo từng chợ... bao gồm các hình thức như: giao chỉ tiêu và hoạt động theo hình thức thực thu, thực chi, giao khoán, khoán thầu...

- Về mô hình quản lý: Các bộ phận quản lý chợ thông thường được tổ chức theo các mô hình: ban quản lý, tổ quản lý và cá nhân quản lý. Việc áp dụng hình thức nào ở mỗi chợ phụ thuộc vào qui mô và phạm vi hoạt động của chợ, tính chất hoạt động kinh doanh trên chợ và lưu lượng người tham gia mua bán trên chợ... Mô hình phổ biến là tổ quản lý và cá nhân quản lý. Mô hình ban quản lý chỉ chiếm khoảng 20-25% tổng số chợ và thường là ở các chợ qui mô lớn. Các chợ không có quản lý vẫn còn chiếm khoảng 5-7% tổng số chợ trên địa bàn cả nước.

Mô hình công ty kinh doanh chợ còn rất ít, chỉ một vài địa bàn trên cả nước áp dụng dưới các hình thức như công ty trách nhiệm hữu hạn... các công ty này đầu tư từ đất đai đến việc xây dựng toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất và cho các hộ kinh doanh thuê mặt bằng. Đây là mô hình cần được xem xét, rút kinh nghiệm và nhân rộng trong thời gian tới.

* Quản lý các hộ kinh doanh: việc quản lý các hộ kinh doanh trên chợ chủ yếu tập trung vào các mặt như thuế, lệ phí kinh doanh, lệ phí cho phòng cháy chữa cháy và vệ sinh môi trường... nhìn chung, hầu hết các hộ kinh doanh trên chợ đều được quản lý, chỉ trừ một số ít chợ qui mô nhỏ, việc quản lý các hộ kinh doanh còn lỏng lẻo nên hay xảy ra tình ô nhiễm môi trường, mất an toàn giao thông và các nguy cơ bất ổn khác.

* Quản lý cơ sở vật chất: việc quản lý cơ sở vật chất hiện nay trên các chợ chủ yếu tập trung vào việc xắp xếp các hộ kinh doanh trên chợ để sử dụng tối đa diện tích kinh doanh mà chưa chú trọng đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ kinh doanh. Vì vậy, ở những chợ mà diện tích kinh doanh bình quân quá thấp sẽ xảy ra tình trạng các hộ làm sai lệch thiết kế, ảnh hưởng đến kết cấu, không gian kiến trúc của chợ. Ngược lại, ở một số chợ, do chưa có các hình thức quản lý hoặc biện pháp khuyến khích kinh doanh thích hợp nên diện tích kinh doanh trong chợ đã được xây dựng bị bỏ trống trong khi thương nhân lại họp chợ bên ngoài chợ, làm lãng phí công trình chợ, gây mất mỹ quan và ảnh hưởng giao thông công cộng.

8. Nguồn thu của chợ

Các nguồn thu chủ yếu từ chợ bao gồm: thuế, lệ phí, cho thuê diện tích kinh doanh, dịch vụ. Tiền thuế do cơ quan thuế chịu trách nhiệm thu trực tiếp từ các hộ kinh doanh. Ban quản lý hoặc tổ quản lý chợ chịu trách nhiệm thu các khoản lệ phí, cho thuê diện tích kinh doanh và từ các hoạt động dịch vụ như vệ sinh, bảo vệ, trông giữ xe... thuế và lệ phí là các nguồn thu lớn nhất, trung bình chiếm 60-70% tổng nguồn thu trên các chợ. Thu từ cho thuê diện tích kinh doanh chiếm 10-20%. Thu từ kinh doanh dịch vụ và các nguồn khác chiếm tỉ lệ thấp. Phần thu từ chợ ở khu vực đô thị lớn hơn rất nhiều so với khu vực nông thôn.

Các nguồn chi chủ yếu trên chợ bao gồm: Trả lương và phụ cấp cho cán bộ quản lý, chi sửa chữa nhỏ, chi mua trang thiết bị và chi nộp ngân sách... trong đó, chi để trả lương và phụ cấp chiếm tỉ lệ lớn nhất, chiếm khoảng 50-60% tổng số chi, chi để sửa chữa nhỏ chiếm hơn 10%, chi mua trang thiết bị 5-7%, còn lại là các khoản chi khác. Có thể thấy, các khoản chi cho bảo dưỡng, tái đầu tư xây dựng chợ rất thấp. Hầu như chỉ các chợ lớn ở khu vực đô thị mới có khoản nộp ngân sách. Nhìn chung, nếu chợ có qui mô lớn thì nguồn thu trên chợ lớn và khả năng tái đầu tư cho phát triển chợ lớn và ngược lại. Điều này cần tính đến trong việc đề ra các chính sách phát triển nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất chợ trên từng địa bàn cho phù hợp.

Đánh giá chung:

- Hệ thống chợ chủ yếu thiên về chức năng bán lẻ và có qui mô nhỏ, các chợ đầu mối, chợ tổng hợp qui mô lớn có chức năng bán buôn, thu gom và phát luồng hàng hoá còn ít, đang có xu thế phát triển trong thời gian gần đây.

-  Mật độ chợ khá thưa thớt ở khu vực miền núi, Tây Nguyên nên bán kính phục vụ trung bình đến một chợ ở các khu vực này quá lớn. Hệ thống chợ không phát triển không chỉ gây khó khăn cho đời sống người dân hiện tại mà còn làm hạn chế đến việc phát triển giao lưu hàng hoá và phát triển thị trường tại các khu vực này.

- Tại các thành phố lớn, tuy bán kính và diện tích phục vụ không cao nhưng mật độ dân số trên một chợ khá lớn.

- Nhìn chung, mô hình quản lý chợ chưa phát triển, hoạt động quản lý trực tiếp hầu như chỉ tập trung vào chức năng thu phí và thiếu tính thống nhất trong toàn hệ thống. Một mặt là do qui mô của hầu hết các chợ còn nhỏ và tính chất của hoạt động mua bán trao đổi trên chợ còn khá đơn giản, nhưng mặt khác cũng còn do nhận thức chưa đúng về vai trò, vị trí của chợ đối với phát triển thị trường và phát triển kinh tế xã hội, do trình độ quản lý còn hạn chế. Điều này đã dẫn đến rất nhiều những thiếu sót cần khắc phục trên hệ thống chợ hiện nay như: khả năng khai thác, sử dụng công trình chợ thấp, khả năng thu chi và đầu tư phát triển chợ thấp, vấn đề mất an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường, an toàn giao thông, bố trí sắp xếp thiếu mỹ quan trong khu vực chợ,... do vậy, cần phải có sự đổi mới trong công tác quản lý cả về nhận thức, về mô hình và cơ chế quản lý để nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động quản lý chợ trên địa bàn cả nước.

- Nguồn vốn đầu tư phát triển chợ còn hạn chế do sự eo hẹp về ngân sách của Nhà nước, do khả năng huy động từ các nguồn khác còn khó khăn, hơn nữa, việc sử dụng vốn ngân sách vào đầu tư xây dựng chợ ở một vài địa phương còn kém hiệu quả. Vì vậy, để giải quyết tốt vấn đề vốn đầu tư cho xây dựng và phát triển hệ thống chợ, một mặt phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách, đồng thời, có các biện pháp huy động được vốn từ ngoài xã hội trên cơ sở bảo đảm khả năng sinh lời từ đồng vốn vào kinh doanh chợ của các thành phần kinh tế.

- Hàng hoá kinh doanh chủ yếu trên chợ ở khu vực thành thị đang dần chuyển dịch theo hướng tăng cường tỉ trọng các mặt hàng thực phẩm tươi sống. Các loại hàng hoá có giá trị lớn hoặc đòi hỏi diện tích kinh doanh rộng có xu hướng tách dần ra khỏi chợ và được kinh doanh tại các loại hình thương mại khác như siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh bên ngoài chợ. Như vậy, khi qui hoạch phát triển hệ thống chợ hay thiết kế xây dựng một chợ cụ thể cần chú trọng đến việc phát triển các chợ chuyên doanh thực phẩm tươi sống ở khu vực đô thị và ưu tiên phần diện tích kinh doanh thích hợp cho các khu vực bán hàng thực phẩm tươi sống trên chợ tổng hợp ở khu vực thành thị.

- Các điều kiện về diện tích mặt bằng, diện tích kinh doanh,bố trí không gian kiến trúc và điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật chợ rất đa dạng. Hình ảnh chung của các chợ, nhất là chợ ở khu vực nông thôn còn nhếch nhác, thiếu mỹ quan. Vì vậy, cần xây dựng và áp dụng  các tiêu chuẩn và qui định thống nhất cho các loại hình chợ cả về diện tích mặt bằng, tỉ lệ các công trình xây dựng, các khu chức năng... đến cách phân lô quầy, cách trưng bày, giới thiệu hàng hoá... theo hướng thuận tiện và đảm bảo văn minh thương mại...

- Đội ngũ thương nhân hoạt động thường xuyên ở chợ còn nhỏ bé và hạn chế về nhiều mặt, đòi hỏi cần phải nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh cho họ để qua đó mà phát huy được vai trò, tác động của mạng lưới chợ đến sản xuất và đời sống nhân dân ở các khu vực.

- Sự tham gia trao đổi hàng hoá của nông dân ở mạng lưới chợ khu vực nông thôn, miền núi còn nhỏ lẻ, làm giảm vị thế đàm phán của họ trong giao dịch. Mặt khác, do chưa quan tâm đến việc nâng cao nhận thức của nông dân về lợi ích của chợ, nên ngay cả ở các vùng sản xuất nông sản lớn của cả nước, sự tham gia lưu thông hàng hoá của nông dân ở các chợ nông sản còn rất hạn chế, mà phần lớn là thương nhân.Vì vậy, để phát huy các chức năng của chợ đối với khu vực nông thôn, miền núi, cần có sự thu hút mạnh mẽ lực lượng nông dân tham gia vào các hoạt động chợ, đồng thời thúc đẩy việc hình thành những tổ chức tiêu thụ hàng của nông dân để nâng cao vị thế đàm phán cho họ nhằm đảm bảo nâng cao thu nhập cho nông dân cũng như dẫn dắt họ tham gia vào các hệ thống thị trường nông sản.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC