Cạnh tranh Mỹ - Trung và những tác động tới thương mại Việt Nam (Phần 3)

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Cạnh tranh Mỹ - Trung và những tác động tới thương mại Việt Nam (Phần 3)

11/12/2023

Một số dự báo

"Gần như mọi động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 3 thập kỷ qua đều đã dần mờ nhạt. Kết quả có thể sự phát triển trong suốt một thập kỷ qua đang dần biến mất, không phải chỉ với một số quốc gia hay khu vực như trong quá khứ, mà là với cả thế giới", Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo trong báo cáo mới đây. Sự tắc nghẽn của chuỗi cung ứng bắt nguồn từ đại dịch và sự phục hồi sau đó đã giúp ta thấy rõ hơn sự mong manh của nền kinh tế toàn cầu. Janet Yellen, Bộ trưởng Tài chính Mỹ đánh giá rằng chuỗi cung ứng hiện đang thiếu linh hoạt và không bền vững.

Nhu cầu yếu, hàng tồn kho nhiều, tất yếu là nhu cầu nhập khẩu của những thị trường tiêu thụ lớn ở Âu - Mỹ suy giảm.Và kết quả là thương mại toàn cầu ảm đạm. Thương mại toàn cầu có thể sẽ còn xấu đi nữa trong ngắn hạn trước khi tốt lên.Hệ quả dễ thấy là tăng trưởng của nhiều nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sụt giảm.Dữ liệu mới được Chính phủ Trung Quốc công bố cho thấy kim ngạch xuất khẩu của nước này trong tháng 6-2023 giảm tới 12,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này cao hơn nhiều so với mức giảm 7,5% được ghi nhận trong tháng 5 trước đó.

Tốc độ tăng trưởng chung toàn cầu giảm đi sẽ kéo theo cầu về hàng XK của Việt Nam suy giảm.Dự báo,tốc độ tăng trưởng XK của Việt Nam sẽ giảm mạnh trong các năm 2023-2025.Tương tự, tốc độ tăng NK sẽ giảm khoảng 0,6 điểm %.

Theo Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (NFSC),việc tăng lãi suất đồng USD và hiệu ứng cuộc chiến  thương mại Mỹ - Trung sẽ tác động lên ngân sách và nợ công của Việt Nam trên hai phương diện : (1) nguồn thu ngân sách từ hoạt động sản xuất kinh doanh và thu từ hoạt động XK sẽ giảm; (2) đồng Nhân dân tệ đã giảm giá và có thể tiếp tục phá giá tạo áp lực lên tỷ giá trong nước theo hướng giảm giá Việt Nam đồng (VNĐ), từ đó tác động tới chi phí trả nợ vay của Chính phủ cũng sẽ tăng.

Trung Quốc và Mỹ chiếm hơn 1/3, tức khoảng 34% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, vì vậy, cuộc chiến thương mại giữa hai cường quốc kinh tế này tất yếu sẽ lan tỏa đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thương mại nói riêng.Trong ngắn hạn, ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam chưa lớn, nhưng về lâu dài sẽ có tác động không nhỏ vì đây là hai đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam.

Hàng nông sản Mỹ gặp khó khăn tại Trung Quốc sẽ tìm cách thâm nhập các thị trường khác, sức ép mở cửa thị trường Việt Nam vì thế sẽ gia tăng.

Trung Quốc áp thuế, giảm nhập hàng nông sản từ Mỹ, sẽ là cơ hội cho hàng nông sản Việt Nam vào thị trường này,tuy nhiên chỉ nằm chủ yếu ở nhóm các sản phẩm thay thế .

Nếu Mỹ áp thêm thuế lên các mặt hàng linh phụ kiện điện,điện tử thì xuất khẩu của Trung Quốc sẽ giảm, kéo theo sự suy giảm XK của Việt Nam vì do đây là mặt hàng có giá trị  lớn trong tổng kim ngạch xuất của nước ta sang Trung Quốc.

Mặt khác, khi hàng hóa của Trung Quốc khó xuất sang Mỹ thì quốc gia này sẽ đẩy mạnh XK sang các nước khác,trong đó có Việt Nam.Hàng hóa không còn là hàng trung gian máy móc thiết bị mà còn bao hàm cả hàng tiêu dùng như nội thất, hóa chất, nhựa, cao su, nông thủy sản.Nếu đồng nhân dân tệ  (NDT) mất giá thêm nữa, và  nếu VNĐ vẫn giữ ổn định với USD thì hàng Trung Quốc đã rẻ sẽ còn rẻ hơn, hàng Việt sẽ đắt hơn và khó cạnh tranh nổi.

Điều quan ngại hơn là gian lận thương mại bùng phát khi nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sẽ tìm cách đẩy hàng sang Việt Nam để từ đó đưa qua Mỹ (hàng Trung Quốc xuất sang Việt Nam rồi dán nhãn Việt Nam và xuất sang Mỹ để tránh thuế).Nếu bị Hoa Kỳ phát hiện sẽ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cho các doanh nghiệp Việt Nam (cảnh cáo, trừng phạt, theo dõi…).

Giải pháp chung

Tăng trưởng xanh, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu hướng trên toàn cầu.Xu hướng phát triển này đã và đang hình thành nên “luật chơi” mới về thương mại và đầu tư. Các thị trường nhập khẩu quan trọng triển khai áp dụng thuế suất cao đối với các sản phẩm có "dấu chân carbon" lớn và nhiều nền kinh tế phát triển đã đặt ra những quy định liên quan đến môi trường khắt khe hơn đối với hàng hóa nhập khẩu.

Để không bị loại khỏi cuộc chơi bởi các tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội do các thị trường nhập khẩu đặt ra, các nước xuất khẩu,trong đó có Việt Nam cần thay đổi tư duy, quan tâm tới “tính xanh” của chuỗi sản xuất và cung ứng thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường.

Tính toán từ mô hình Cân đối liên ngành liên quốc gia rút gọn giữa Việt Nam, Trung Quốc, Mỹ và EU,các chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang Thái và Bùi Trinh trong nghiên cứu công bố tháng 6-2021 đã chỉ rõ: 100 đô la Mỹ xuất khẩu của Việt Nam lan tỏa đến giá trị sản xuất của Việt Nam 74 đô la, đến giá trị tăng thêm của Việt Nam khoảng 72 đô la; và lan tỏa đến giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của Trung Quốc tương ứng là 23 đô la và 25 đô la.Như vậy, xuất khẩu của Việt Nam lan tỏa đến cả sản xuất và giá trị gia tăng của những nước mà Việt Nam nhập nguyên liệu,vì vậy, để nó thực sự mang lại lợi ích cho nền kinh tế, các doanh nghiệp trong nước phải tự sản xuất ra các sản phẩm phụ trợ đầu vào cho sản phẩm xuất khẩu.

Thay vì đầu tư vào những dự án chưa thực sự bức thiết, phải chăng nên tập trung vào một số trọng điểm có khả năng thay đổi diện mạo của các lĩnh vực quan trọng được xác định dựa trên chiến lược phát triển trước mắt và lâu dài của nền kinh tế.

Hiểu rõ đặc điểm, nhu cầu, lợi thế so sánh và đặc điểm chuỗi cung ứng tới từng thị trường là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam có thể thâm nhập. Nghĩa là, trách nhiệm nặng nề đang thuộc về công đoạn xúc tiến thương mại và để có thể làm tốt hơn, các cơ quan hữu trách sẽ phải nỗ lực hơn rất nhiều.

Chủ động xây dựng các phương án, giải pháp, chương trình hành động đẩy liên kết vùng về thương mại, dịch vụ, đề xuất chiến lược phát triển kinh tế vùng từ chuỗi sản xuất, thương mại và dịch vụ trên cơ sở thế mạnh của từng địa phương để phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Về dài hạn, chiến lược liên kết vùng phải hướng tới xuất khẩu xanh, phù hợp với định hướng phát triển bền vững cũng như đáp ứng các yêu cầu quốc tế về kinh tế tuần hoàn.

Phải có lộ trình để tổ chức lại sản xuất, thị trường, ngành hàng và cả hiệp hội ngành hàng. Nếu không tổ chức sản xuất thì sẽ không chuẩn hóa được vùng nguyên liệu, không truy xuất được nguồn gốc sản phẩm… và không có sản phẩm để đưa vào xuất khẩu chính ngạch.

Việc chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch là cuộc cách mạnh cần có sự kiên trì, sẵn lòng và sẵn sàng của cả hệ thống sản xuất, thương mại.

Việc chuyển đổi hình thức xuất khẩu này đặt ra nhiều vấn đề giữa mong muốn và thực trạng. Bởi, thời gian vừa qua ngành vẫn còn sản xuất để xuất khẩu tiểu ngạch chứ chưa phải sản xuất để xuất khẩu chính ngạch.

Vấn đề đặt ra là cần chuẩn hóa từ đầu cung, điều kiện doanh nghiệp khi tiếp cận ở các vùng nguyên liệu chứ không chỉ là chuyển cách thức thương mại ở cửa khẩu .

Sức ép tỷ giá lên tiền đồng sẽ lớn hơn khi Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.Việc điều chỉnh tỷ giá USD/VNĐ với mục đích hỗ trợ cho XK hay để bù lại cho những sụt giảm trong thương mại chỉ có tác động trong ngắn hạn.Để hỗ trợ XK,cần một chính sách tiền đồng yếu, được thực hiện một cách có chiến lược và ổn định trong dài hạn.Theo đó không để VNĐ lên giá so với đồng NDT quá mức 5%.Nếu đồng NDT xuống giá với USD 8% thì VNĐ xuống giá so với USD 3%,vì nếu lớn hơn sẽ chịu sức ép cạnh tranh với hàng Trung Quốc rất mạnh.

Hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia cần được xây dựng, phát triển theo hướng kết nối, liên thông và tập trung tương tự như mô hình Cổng dịch vụ công quốc gia.Bên cạnh đó, hành lang pháp lý cần cụ thể và chi tiết hơn để hoạt động xây dựng, ứng dụng được bài bản, thống nhất, phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam và quốc tế.Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cần xây dựng tài liệu hướng dẫn kết nối, chia sẻ dữ liệu và sớm ban hành bộ tiêu chí về truy xuất nguồn gốc, chuỗi cung ứng...phục vụ việc kết nối, tích hợp vào cổng truy xuất nguồn gốc của bộ.

Thời gian tới có thể phát triển mạnh một cổng thông tin chung về quản lý, giám sát thông tin sản phẩm.Qua đó, có thể đưa thông tin của hàng vạn hợp tác xã, ngành hàng, giá bán, giá mua nông sản… để tất cả các chủ thể có nhu cầu dễ dàng tiếp cận, tiến tới tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sẽ được minh bạch thông tin.

Hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đang có hơn 13.500 tiêu chuẩn quốc gia (TC Việt Nam), bao trùm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và có tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đạt hơn 60%.

Dù số lượng tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam đang đứng tốp đầu ASEAN, tuy nhiên, nếu nhìn vào Chỉ số Hạ tầng chất lượng toàn cầu (GQII), có thể thấy số điểm của Việt Nam là 54, dưới nhiều quốc gia như Trung Quốc đứng thứ 2, Nhật Bản đứng thứ 5, Hàn Quốc đứng thứ 6, Ấn Độ đứng thứ 10, Indonesia đứng thứ 26, Singapore đứng thứ 31, Malaysia đứng thứ 40…

Hiện nay, các TC Việt Nam do 13 bộ quản lý chuyên ngành chịu trách nhiệm xây dựng, tuy nhiên, các bộ, ngành hiện xây dựng tiêu chuẩn không theo định hướng dài hạn mà theo kiểu thiếu đâu bù đó hoặc nếu có yêu cầu của Chính phủ thì đưa vào kế hoạch xây dựng TC Việt Nam.

Việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam hài hòa với thông lệ quốc tế; cập nhật các tiêu chuẩn, quy chuẩn hàng hóa quốc tế thành cơ sở dữ liệu để doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm hiểu, ứng dụng sẽ là những hướng đi, giải pháp hữu ích nhằm giúp hàng hóa Việt Nam dễ dàng vượt qua các rào cản về tiêu chuẩn, quy chuẩn, hàng rào kỹ thuật thương mại khi sang thị trường thế giới.

Việt Nam cần từng bước gắn kết tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế và hướng đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cơ quan quản lý có thể thực hiện điều này ở một số tiêu chuẩn cần thiết và cần thực hiện một cách chủ động nhằm giúp doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt ngay cả khi chưa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty đa quốc gia. Các doanh nghiệp nhỏ có thể cùng liên kết với nhau để có được chứng chỉ và duy trì chứng chỉ chất lượng vì chi phí cho việc này là khá tốn kém. Đặc biệt, với các ngành điện tử, công nghệ, cần các chính sách và định hướng tiêu chuẩn để thích nghi và nâng cao lợi thế cạnh tranh cũng như giá trị doanh nghiệp.

Với thị trường Trung Quốc

Phát triển, mở cửa và thúc đẩy vai trò kết nối của khu vực miền Tây, trong đó có Quảng Tây và Vân Nam, khu vực tiếp giáp với Việt Nam được Trung Quốc đặc biệt coi trọng bởi nó liên quan đến bảo vệ thành quả của cuộc chiến thoát nghèo cũng như thực hiện mục tiêu “cùng giàu có” hiện nay. 

Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 14 và mục tiêu viễn cảnh năm 2035 nhấn mạnh đi sâu thúc đẩy đại khai phát miền Tây, thúc đẩy sự phồn vinh và ổn định của biên giới, hỗ trợ xây dựng các cảng biên giới, thúc đẩy phát triển đổi mới của thương mại biên giới. 

Trong 9 thành phố biên giới trọng điểm được hỗ trợ nâng cấp chức năng nêu trong Quy hoạch có thành phố Đông Hưng; 14 cửa khẩu cải tạo nâng cấp có cửa khẩu Hữu Nghị Quan. Quảng Tây được xác định là “cao điểm hợp tác mở cửa hướng ra ASEAN”, Vân Nam là “trung tâm khúc xạ hướng ra khu vực Nam Á, Đông Nam Á và vành đai Ấn Độ Dương”.

Quảng Tây, Vân Nam đã thực hiện xây dựng khu thương mại tự do (trong đó có phân khu Sùng Tả, phân khu Hồng Hà tiếp giáp với Việt Nam) theo phương án tổng thể thành lập 6 khu thí điểm thương mại tự do được Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành ngày 2/8/2019.

Việc Trung Quốc tập trung xây dựng các chuỗi công nghiệp, chuỗi dịch vụ xuyên biên giới, đi sâu thực hiện “5 xuyên biên giới” như thương mại xuyên biên giới, tài chính xuyên biên giới, hậu cần xuyên biên giới, du lịch xuyên biên giới và dịch vụ lao động xuyên biên giới sẽ mang đến cơ hội và thách thức. Câu hỏi đặt ra là Việt Nam có sự chuẩn bị như thế nào để đón nhận song song với giải quyết những vấn đề tồn tại hiện nay. 

Về phía Nhà nước

Tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn nông sản Việt Nam; tổ chức sản xuất nông sản trong cả nước theo hướng sản xuất theo đơn đặt hàng, ký kết hợp đồng xuất khẩu chính ngạch theo đúng các yêu cầu sản xuất chất lượng, số lượng của các nhà nhập khẩu, hợp đồng đặt hàng thông qua liên kết sản xuất giữa hợp tác xã, doanh nghiệp có định hướng của các bộ, ngành và hiệp hội từ đó đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu theo hình thức chính ngạch.

Cần quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông tại các cửa khẩu lớn để kết nối đồng bộ với Trung Quốc; tăng cường hình thức vận chuyển hàng nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc bằng đường sắt, đường biển để khắc phục hàng rào kỹ thuật, thời gian thông quan, thủ tục được giải quyết ngay từ trong nội địa, giảm được chi phí vận chuyển và một số chi phí khác so với việc đi theo cửa khẩu đường bộ, đồng thời giảm tải vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ đến các cửa khẩu biên giới phía Bắc.

Vấn đề logistics và kho bãi đã luôn là nút thắt cổ chai trong thúc đẩy xuất khẩu nông sản từ Việt Nam sang Trung Quốc,cần được quan tâm nhiều hơn để có thể tạo chuyển biến về xuất khẩu số lượng lớn.

Việc Trung Quốc xây dựng lộ trình đóng biên, loại bỏ hoàn toàn xuất khẩu tiểu ngạch vào nước này sẽ là trở ngại lớn với cả thương nhân Việt Nam và Trung Quốc.Đây cũng là khó khăn chung đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam ,trong khi đó, có tới 70% sản lượng nông sản xuất khẩu sang nước bạn bằng đường tiểu ngạch và doanh nghiệp xuất khẩu đa phần là doanh nghiệp nhỏ.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang hợp tác với Tập đoàn Sunwah của Trung Quốc xây dựng một sàn giao dịch điện tử cho nông sản Việt Nam tại Trung Quốc.Đây là cách tốt nhất để các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán nông, lâm, thủy sản trực tiếp cho người tiêu dùng tại Trung Quốc, khi 2/3 người dân Trung Quốc đang có xu hướng mua hàng online...

Bộ Công Thương đã xây dựng và đang xin ý kiến của các cơ quan, tổ chức, người dân và doanh nghiệp về Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới.

Trung Quốc là một trong những thị trường xuất khẩu trái cây lớn của Việt Nam, việc bảo vệ mã số vùng trồng, đóng gói hay đầu tư vào chất lượng trở thành yêu cầu bắt buộc.Việc thiết lập vùng trồng để cấp mã số sẽ bao gồm xác định diện tích, sử dụng thống nhất một quy trình sản xuất trong vùng trồng, kiểm soát các sinh vật gây hại thuộc danh mục đối tượng kiểm dịch thực vật của các nước, có nhật ký canh tác, thực hành nông nghiệp tốt, tối thiểu là theo quy trình VietGAP.

Tổ chức các diễn đàn xúc tiến thương mại thường niên và luân phiên giữa tỉnh Quảng Tây và Việt Nam.Thành lập Hiệp hội doanh nghiệp nông sản để tạo sân chơi giữa doanh nghiệp hai nước, từ đó xây dựng chuỗi cung ứng nông sản.

Về phía doanh nghiệp

Tích cực tìm hiểu thông tin về thị trường Trung Quốc.Theo dõi và nắm bắt nhu cầu thị hiếu, những thay đổi trong chính sách thương mại, chính sách nhập khẩu của Trung Quốc để có sự điều chỉnh kịp thời trong sản xuất, kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc; Tìm hiểu kỹ những quy định đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốcvtrước khi xuất khẩu sang thị trường này.

Theo đó, các doanh nghiệp cần nắm vững hệ thống quy định, tiêu chuẩn hiện hành cua Trung Quốc.Cụ thể, các văn bản quy định pháp luật: Biện pháp Quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu (Lệnh 249); Quy định về đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm xuất khẩu nước ngoài (Lệnh 248); Luật kiểm dịch động thực vật xuất nhập cảnh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Bên cạnh đó là các tiêu chuẩn quốc gia về an toàn thực phẩm: Tiêu chuẩn sử dụng phụ gia thực phẩm (GB 2760-2014); Tiêu chuẩn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm (GB 2763-2021); Tiêu chuẩn dư lượng thuốc thú y trong thực phẩm (GB 31650-2019); Tiêu chuẩn dư lượng tạp chất trong thực phẩm (GB 2761-2017); Tiêu chuẩn dư lượng độc tố nấm mốc trong thực phẩm (GB 2762-2017); Tiêu chuẩn dư lượng vi khuẩn gây bệnh trong thực phẩm (GB 29921-2021)...

Các quy định về bao bì, tem nhãn, truy xuất nguồn gốc cũng cần chú ý: Biện pháp Quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu (Điều 28 ~ Điều 32); Thỏa thuận, Nghị định thư giữa Trung Quốc với các quốc gia xuất khẩu; Các tiêu chuẩn liên quan khác của nước nhập khẩu (Quy tắc tem nhãn đối với thực phẩm đóng gói sẵn...)

Đa dạng hoá, phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu: Chú trọng đa dạng hóa và phát triển các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị hiếu thay đổi nhanh của thị trường Trung Quốc về sản phẩm xanh, bổ dưỡng, có thương hiệu và đạt tiêu chuẩn chất lượng; Tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở cải thiện năng lực sản xuất, sử dụng nền tảng sản xuất theo hướng hiện đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu; Tận dụng tốt các ưu đãi từ ACFTA để đẩy mạnh và chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.

Chú trọng đầu tư,đổi mới công nghệ chế biến nhằm tăng giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu:Đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường thông qua nguồn vốn tự có, thu hút vốn của cổ đông hoặc liên kết với doanh nghiệp nước ngoài nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và đáp ứng được nhu cầu thị hiếu thay đổi nhanh của thị trường Trung Quốc.Công nghệ sản xuất tiên tiến sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, tạo ra các sản phẩm xanh có hàm lượng công nghệ cao. Qua đó, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung, thị trường Trung Quốc nói riêng.

Chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trường : Nâng cao năng lực và nhận thức trong việc nắm bắt các quy định kỹ thuật và yêu cầu về kiểm dịch của thị trường Trung Quốc ; Chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, HACCP và ISO 14000 và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khỏe và môi trường để vượt qua các rào cản kỹ thuật khi vào thị trường Trung Quốc để làm nền tảng cho việc vượt qua hàng rào kỹ thuật thương mại của Trung Quốc.Việc xây dựng và triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, HACCP và ISO 14000 sẽ giúp cho doanh nghiệp chuyển dịch tích cực cơ cấu hàng hóa xuất khẩu nói chung, sang thị trường Trung Quốc nói riêng.

Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch: Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn để thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc.Kinh doanh theo phi vụ, trục lợi ngắn hạn, thiếu tính liên kết, cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới rủi ro cao và hiệu quả thu được thấp; Chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch để phát triển sản xuất nội địa, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt là nhóm hàng nông thủy sản. Xuất khẩu chính ngạch giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro về thanh toán, chất lượng sản phẩm và tiết kiệm được chi phí.    

Chú trọng xây dựng và đăng ký bảo hộ thương hiệu cho hàng xuất khẩu: Xây dựng thương hiệu cho hàng hóa xuất khẩu; Đăng ký bảo hộ thương hiệu dài hạn tại Trung Quốc tránh bị mất hay tranh chấp thương mại. Trung Quốc là nước nổi tiếng với việc làm nhái thương hiệu, vì vậy đăng ký bảo hộ thương hiệu là việc làm cần thiết để có thể đưa hàng hóa thâm nhập sâu vào thị trường này. Chất lượng hàng hóa ổn định có thương hiệu đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng các sản phẩm có chất lượng, có thương hiệu và sẵn sàng trả giá cao cho các sản phẩm nhập khẩu có thương hiệu.

- Tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu: Thay đổi tư duy trong sản xuất, tập trung tạo ra giá trị gia tăng và sự khác biệt cho sản phẩm, tránh việc sản xuất đại trà các mặt hàng có giá trị thấp; Chủ động tận dụng các chính sách ưu đãi, lợi thế cạnh tranh, đồng thời phải có chiến lược tiếp cận các tập đoàn xuyên quốc gia/tập đoàn đa quốc gia để tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đó.

Nghiên cứu kỹ thông tin, tín hiệu và các quy định, tiêu chuẩn của thị trường, tuân thủ đầy đủ các điều kiện về đăng ký doanh nghiệp, các tiêu chuẩn chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch, bao bì đóng gói, truy xuất nguồn gốc...

Tăng cường tham dự các chương trình hội chợ, triển lãm quốc tế do các địa phương, cơ quan trung ương hai nước phối hợp tổ chức nhằm tăng cường kết nối trực tiếp sau thời gian hạn chế kéo dài của dịch bệnh.

Các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động kết hợp với các đối tác nhập khẩu trong việc xây dựng, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp mình bên cạnh việc nắm vững và đáp ứng tốt các yêu cầu về kiểm dịch, chất lượng của thị trường Trung Quốc.

Các doanh nghiệp ngành rau quả nghiên cứu khả năng đầu tư hoặc hợp tác đầu tư với doanh nghiệp Trung Quốc trong lĩnh vực chế biến rau quả, một mặt nâng cao hàm lượng giá trị xuất khẩu, một mặt bắt kịp xu thế thị trường trái cây và rau quả chế biến không ngừng tăng trong những năm trở lại đây. (Còn tiếp)

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC