Các doanh nghiệp tư nhân lớn trong phát triển kinh tế

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Các doanh nghiệp tư nhân lớn trong phát triển kinh tế

11/08/2022

Khu vực doanh nghiệp tư nhân đang khẳng định vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, là động lực tạo ra của cải vật chất rất lớn. Số liệu thống kê năm 2019 cho thấy Việt Nam đang có 668,5 ngàn doanh nghiệp (DN) trong đó DN tư nhân trong nước là 647,6 ngàn DN, chiếm 96,88% tổng số, đóng góp 15,12 triệu tỷ VND (57%) tổng doanh thu thuần, thu hút 9.075 ngàn lao động, chiếm 59,9% tổng lao động trong khu vực DN ở Việt Nam. DN tư nhân trong nước phần lớn là các DN được thành lập sau Đổi mới với số lượng lớn DN có quy mô nhỏ và vừa. Số lượng DN có quy mô lớn không nhiều, sự hìnhthành và phát triển của các DN tư nhân lớn đóng vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.

1. Vai trò dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường

Trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 và gần đây là Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định khu vực kinh tế tư nhân đang trở thành khu vực ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Vấn đề này cũng được đưa ra tại Hội thảo Đánh giá 500 doanh nghiệp (DN) lớn nhất Việt Nam do Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia (NCIF- Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp cùng Viện Konrad Andenauer Stiftung Việt Nam tổ chức vào sáng 10/8/2022 tại Hà Nội. Theo các chuyên gia tại Hội thảo, các doanh nghiệp tư nhân trong nước có số lượng lớn bao gồm cả các doanh nghiệp vừa, nhỏ và rất nhỏ nhưng thị phần hầu như chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp có quy mô lớn. Trung bình giai đoạn 2016 - 2019, 500 DN tư nhân trong nước lớn nhất (VPE500) chiếm 0,089% số lượng; đóng góp 10,4% lao động, 13,0% tổng tài sản, 15,8% doanh thu thuần của khối DN tư nhân trong nước (Theo Báo cáo 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam - NCIF). VPE500 đạt tăng trưởng lao động, tài sản, doanh thu thuần, năng suất lao động cao hơn khối DN tư nhân trong nước nói chung, tham gia sâu hơn vào hoạt động thương mại quốc tế và lan tỏa về năng suất tới các DN tư nhân trong nước khác.

Nền kinh tế nước ta hiện nay chủ yếu là các doanh nghệp nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh thấp, dựa chủ yếu vào đầu tư nước ngoài. Như vậy làm thế nào để phát huy được nội lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Một trong những yếu tố cần chú trọng là nhóm doanh nghiệp tư nhân lớn, nhóm DN này có thể được coi như lực lượng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường. Kết quả hoạt động và tính cạnh tranh của VPE500 có thể định hình mô hình kinh doanh và tăng trưởng cũng như có tính quyết định trong các vấn đề chiến lược như cải tiến công nghệ, tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs), môi trường và các vấn đề khác.

Trên thế giới, việc sử dụng chỉ số của các DN lớn như đại diện cho hoạt động của một ngành hoặc của lĩnh vực và thể hiện sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong thị trường chứng khoán. Chỉ số S&P500 (Standard & Poor’s 500), Fortune500, Forbes Global 2000, Russell 1000 Index, FTSE100 Index là các chỉ số đã được sử dụng từ lâu để xếp hạng doanh nghiệp lớn dựa trên một hoặc nhiều tiêu chí (doanh thu, lợi nhuận, tài sản hoặc giá trị thị trường). Tại Việt Nam, Báo cáo VNR500, được Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam phát hành thường niên từ năm 2007, giới thiệu kết quả sản xuất kinh doanh của 500 DN lớn nhất. Bảng xếp hạng VNR500, tương tự Fortune 500, dựa trên doanh thu của DN cập nhật đến hết ngày 31/12 hàng năm.VNR500 cho thấy kết quả hoạt động kinh doanh của các DN, giúp quảng bá thương hiệu DN tới cộng đồng kinh doanh trong nước và quốc tế.

2. Hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân lớn

Các DN tư nhân lớn phân bố tại 57/63 tỉnh thành phố, các DN tư nhân lớn nhất tập trung ở hai trung tâm kinh tế lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội (chiếm gần 50% tổng số) và một số địa phương có nhiều khu công nghiệp như Bình Dương, Đồng Nai, Hưng Yên và Ninh Bình. Nhìn chung, các DN lớn nhất đang được hình thành dựa trên các lợi thế hạ tầng, nguồn lực và thị trường của các địa phương. 500 DN tư nhân lớn nhất phân bố ở hầu hết các ngành kinh tế, trong đó tập trung nhiều nhất ở ngành công nghiệp chế biến chế tạo (CBCT), thương mại (bán buôn và bán lẻ) và xây dựng. Từ năm 2016, có tới 823 DN thuộc nhóm VPE500, với trung bình khoảng trên 20% VPE500 có mặt trong danh mục năm nay sẽ không còn xuất hiện trong VPE500 của năm sau, và khoảng 10% VPE500 chỉ xuất hiện duy nhất một lần. Các DN tư nhân lớn trong ngành dịch vụ biến động nhiều nhất, sự biến động khá lớn của các DN hàng năm trong giai đoạn 2016-2020 cho thấy sự không ổn định của thị trường ở Việt Nam và sự thiếu bền vững, ổn định của các DN.

Nhóm các DN tư nhân lớn nhất hoạt động vượt trội so với DN tư nhân trong nước nói chung trên khía cạnh quy mô và kết quả kinh doanh bình quân cũng như tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và liên kết DN. Trung bình giai đoạn 2016-2019, quy mô lao động và tổng tài sản bình quân của một DN thuộc VPE500 cao gấp hơn 83 lần và hơn 132 lần DN tư nhân trong nước nói chung, doanh thu thuần gấp khoảng 123 lần. Tỷ lệ DN có xuất khẩu lên tới 58,0% so với 7,73% của các DN tư nhân còn lại.

Mặc dù VPE500 chiếm tỷ lệ nhỏ về số lượng DN nhưng đóng góp lớn vào hoạt động của DN tư nhân trong nước. Bình quân giai đoạn 2016-2019, VPE500 chỉ chiếm 0,089% tổng số DN nhưng tạo việc làm cho 10,4% lao động, chiếm 13,0% tổng tài sản và tạo ra 15,8% doanh thu thuần.

Các DN tư nhân lớn nhất có tốc độ tăng tài sản khoảng 15,4%/năm so với khu vực DN tư nhân trong nước nói chung (5,%/năm), doanh thu tăng 11,7%/ năm so với 6,6%/năm. Tuy nhiên, năng suất lao động của các DN tư nhân lớn không tăng nhanh như quy mô, cho thấy nhóm DN lớn đang phát triển dựa trên mở rộng sản xuất hơn là theo chiều sâu. Năng suất lao động của các DN tư nhân lớn nhất chỉ tăng khoảng 5,3%/năm, không quá vượt trội so với mức 4,6%năm của DN tư nhân trong nước khác và thấp hơn tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và DN nhà nước. Mặc dù vậy, các DN tư nhân lớn có nền tảng về công nghệ, thiết bị, máy móc cao hơn so với các DN tư nhân trong nước khác, tỷ lệ DN tự phát triển máy móc, công nghệ cao hơn so với DN tư nhân khác. Nhóm này cũng có tỷ lệ tự động hóa, số hóa cao hơn các DN còn lại. Như vậy các DN tư nhân lớn sẽ là lực lượng nắm giữ và gắn kết với chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh từ đó sẽ tăng năng suất và hiệu quả kinh doanh trong dài hạn.

Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp giai đoạn 2010-2019


2010

2015

2019

Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2010 - 2019 (%/năm)

Tổng số

279.360

442.485

668.503

10,18

DN Nhà nước

3.281

2.835

2.109

-4,79

Tỷ trọng (%)

1,17

0,64

0,32


DN Tư nhân

268.831

427.710

647.632

10,26

Tỷ trọng (%)

96,23

96,66

96,88


DN FDI

7.248

11.940

18.762

11,15

Tỷ trọng (%)

2,59

2,70

2,81


Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả

Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp của 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất trong khối doanh nghiệp tư nhân

Năm

Lao động (%)

Tổng tài sản* (%)

Doanh thu* (%)

2016

9,6

16,8

16,0

2017

11,4

14,7

16,8

2018

10,0

10,2

15,3

2019

10,4

10,4

15,0

Trung bình

10,4

13,0

15,8

Nguồn: Báo cáo 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam, NCIF

 (* )Các chỉ tiêu tổng tài sản, doanh thu thuần được tính theo giá hiện hành

3. Xây dựng chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp tư nhân lớn

Khối DN tư nhân trong nước của Việt Nam hiện nay chưa thực sự phát triển mạnh mẽ, các DN tư nhân lớn chưa vươn tầm được như các công ty tư nhân lớn trên thế giới. Một số DN tư nhân rất lớn có số lượng chưa nhiều và các thương hiệu Việt Nam vẫn có giá trị thấp hơn các thương hiệu của nhiều quốc gia Đông Nam Á. DN tư nhân quy mô nhỏ và vừa gặp phải nhiều trở ngại trong quá trình phát riển. Do vậy, số lượng DN tư nhân trong nước từ quy mô nhỏ vươn lên quy mô vừa, từ quy mô vừa vươn lên quy mô lớn còn rất ít. Theo các chuyên gia, trở ngại khách quan ngăn cản DN tăng trưởng quy mô là: (1) Môi trường kinh doanh vẫn thiếu thuận lợi; (2) Gặp khó khăn trong tiếp cận đất đai, vốn, thị trường, khách hàng và các bất lợi về thuế, hải quan; (3) Thay đổi chính sách và pháp luật kinh doanh dẫn đến các doanh nghiệp không kịp nắm bắt và thích nghi.

Trước tiên, cần làm rõ vai trò của DN tư nhân lớn trong chiến lược phát triển DN của quốc gia. Ở Việt Nam, khu vực DN tư nhân vẫn chưa bền vững, ngay cả với những DN lớn nhất như VPE500. Những DN này, cho tới nay mới chỉ thể hiện là cấu trúc các ngành có sự tập trung cao, trong đó doanh thu, lao động, tài sản tập trung trong một nhóm nhỏ các DN. Cần phải xây dựng chiến lược phát triển DN tư nhân trong thời gian tới trong điều kiện nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước có giới hạn.

Hiện nay, một số chính sách, quy định hiện hành trong tiếp cận ưu đãi đầu tư, tham gia thị trường, cung ứng hàng hóa dịch vụ qua đấu thầu... đang tạo ra những ưu thế gián tiếp cho DN tư nhân lớn, vẫn có sự phân biệt đối xử đối giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó dẫn đến việc phân bổ và tiếp cận nguồn lực chưa được đồng đều giữa các nhóm doanh nghiệp. Việc cải thiện môi trường kinh doanh đối với các DN trong đó có các DN tư nhân lớn đang hoạt động tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, đưa ra các chính sách nhằm giúp DN cải thiện năng lực cạnh tranh và đạt được lợi thế theo quy mô.

Việc tăng cường liên kết giữa khu vực FDI và khu vực trong nước cần đặc biệt chú ý tới các DN tư nhân lớn. Đây là nhóm DN có năng lực và nhiều tiềm năng hơn trong tiếp cận DN FDI cả  trên góc độ chuyển giao công nghệ cũng như tham gia vào chuỗi giá trị. Ngoài ra, cần xây dựng chính sách riêng cho các DN tư nhân lớn có khả năng chấp nhận rủi ro, có khả năng quản lý, dẫn dắt thị trường và đầu tư cho nghiên cứu các công nghệ mới trở thành nhóm doanh nghiệp dẫn đầu dẫn dắt DN nhỏ hơn cùng phát triển.

TS. Trần Thị Thu Hiền

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

 

BÀI VIẾT KHÁC