Bến tre: Phát triển công nghiệp theo mô hình tang trưởng bền vững

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Bến tre: Phát triển công nghiệp theo mô hình tang trưởng bền vững

19/06/2020

Tỉnh Bến Tre xác định năm 2019 là  năm “Tiếp tục tăng tốc - tạo bứt phá” để tạo nền tảng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần X và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre 05 năm trong giai đoạn 2016 - 2020. Với tinh thần đó, ngay từ đầu năm dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung triển khai quyết liệt nhiều giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, ổn định và phát triển thị trường. Các doanh nghiệp đã chú trọng ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm,  nhãn hiệu hàng hóa; đồng thời, xây dựng các mô hình sản xuất hiệu quả theo hướng liên kết sản xuất - tiêu thụ. Vì vây, trong thời gian qua, hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh đã có bước phát triển khá tích cực, đạt được những kết quả nhất định.

Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước thực hiện đạt 30.200 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 10,54% so cũng kỳ (tương đương tăng 3.125 tỷ đồng) và đạt 101,51 % kế hoạch. Trong đó: doanh nghiệp trong nước đạt  15.700 tỷ đồng, tăng 1,35% so cùng kỳ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài  đạt 14.500 tỷ  đồng, tăng 1,75%; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 10,04 % so với năm 2018.

Trong  năm 2019 , đã phát triển mới khoảng 67 doanh nghiệp, 100 cơ sở, ngành nghề chủ yếu là lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, may mặc, cơ khí,.... với tổng vốn đăng ký khoảng 490 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho khoảng 2.000 lao động. Nhiều sản phẩm tăng trưởng khá so với cùng kỳ; bên cạnh đó một số sản phẩm sụt giảm so với cùng kỳ, không đạt kế hoạch như: cơm dừa nạo sấy, chỉ xơ dừa, thủy sản đông lạnh, nước dừa đóng hộp, nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp thiếu nguồn lao động, thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.

Hạ tầng các khu, cụm công nghiệp (CCN) tiếp tục được quan tâm đầu tư; UBND tỉnh đã ban hành quyết định phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp (KCN) Phú Thuận, hiện dự án đang được khẩn trương thực hiện công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng hạ tầng, kêu gọi dự án đầu tư thứ cấp. Trên địa bàn tỉnh hiện có 02 KCN Giao Long và An Hiệp đã được lấp đầy, với 52 dự án đầu tư còn hiệu lực, ngành nghề chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, may mặc, cơ khí, điện tử,... với tổng vốn đăng ký 14.705,94 tỷ đồng; 10 CCN đã được thành lập, với tổng diện tích 347,28 ha, có 09 cụm đã quy hoạch chi tiết với tổng diện tích 337,28 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp 243,45 ha, đã cho thuê 82,77 ha, tỷ lệ lấp đầy khoảng 34,0% diện tích đất công nghiệp (các CCN có 23 dự án đăng ký đầu tư, tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 4,561,25 tỷ  đồng). Tổng số người lao động làm việc trong các CCN khoảng 2.800 lao động.

Tỷ trọng ngành công nghiệp có sự chuyển dịch đúng hướng. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo luôn chiếm ưu thế, chiếm tỷ trọng 97,61%, trong đó: nhóm ngành sản xuất lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng 40,17% (nhóm ngành sản xuất chế biến thủy sản chiếm tỷ trọng 29,13%; nhóm ngành sản xuất chế biến dừa chiếm tỷ trọng 14,40%); nhóm hàng cơ khí, điện, điện tử chiếm tỷ trọng 21,21%; nhóm hàng dệt may, da - giày chiếm tỷ trọng 21,76%; nhóm ngành công nghiệp sản xuất hóa chất, hoá dược chiếm tỷ trọng 3,57% .

Công nghiệp sản xuất các sản phẩm mới: Tỉnh có thế mạnh phát triển năng lượng tái tạo với khoảng 1.520 MW điện gió 1.500 MW điện mặt trời, một số dự án điện gió, điện mặt trời đang thực hiện chuẩn bị đầu tư nhằm khai thác tiềm năng từ nguồn năng lượng sạch, góp phần cung ứng nguồn năng lượng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của tỉnh Bến Tre, qua đó góp phần quan trọng cho việc tăng trưởng giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành trong tương lai.

Hoạt động khoa học công nghệ có nhiều chuyển biến. Tốc độ đổi mới công nghệ  đạt 18%; giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 27%. Hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu tiêu dùng cho 13 sản phẩm đặc sản của tỉnh và 04 doanh nghiệp khởi nghiệp; 14 lượt cơ sở xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; đề nghị Hội đồng Quốc gia xét tặng giải vàng Chất lượng Quốc gia cho 02 doanh nghiệp.

Công tác cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm tăng cường thu hút mạnh mẽ đầu tư luôn được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Các đơn vị có liên quan cũng thường xuyên phối hợp trong việc thanh tra, kiểm tra, khảo sát nắm thông tin, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh, nhằm kịp thời tham mưu tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.

Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh không ngừng được cải thiện qua các năm. Điều này chứng minh tỉnh ngày càng cải thiện tốt hơn về môi trường đầu tư, cũng như đảm bảo tính cạnh tranh khá ổn định và xứng đáng là điểm đến để các nhà đầu tư lựa chọn tìm hiểu, quyết định đầu tư. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường. Công tác xử lý khắc phục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được tập trung thực hiện.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre cũng còn những khó khăn, hạn chế như: Sản xuất công nghiệp có tăng trưởng nhưng chưa vững chắc. Quy mô, năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu. Chất lượng tăng trưởng và hiệu quả đóng góp của công nghiệp vào GRDP có cải thiện nhưng chưa đủ sức để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và bền vững. Trình độ công nghệ, nhân lực và năng suất lao động trong ngành công nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Công nghệ sản xuất tại phần lớn doanh nghiệp của tỉnh còn lạc hậu, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không cao; hoạt động chế biến trong lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản còn hạn chế; tính liên kết giữa các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực chưa cao. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu; công nghiệp nông thôn phát triển chậm và chưa tương xứng với tiềm năng. Triển khai thực hiện các kế hoạch xây dựng chuỗi giá trị nông sản chủ lực của tinh còn hạn chế; liên kết giữa doanh nghiệp và tổ chức với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thiếu tính bền vững, chưa tạo được niềm tin với nhau.

Nguyên nhân là do: đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh cao hơn các địa phương khác, trong khi giá cho thuê lại mặt bằng rất rẻ, chậm thu hồi vốn nên hạn chế thu hút được các nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng; thiếu quỹ đất sạch để kêu gọi đầu tư. Nguồn ngân sách hạn chế, công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn do tính đồng thuận không cao trong dân. Công nghiệp nông thôn phát triển chậm, chưa tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Các dự án năng lượng mặt trời, gió đang trình Bộ Công Thương quy hoạch nhưng chưa được phê duyệt .

Với quan điểm phát triển công nghiệp theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý, chuyển dần chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phát triển công nghiệp nhằm hỗ trợ nâng cao chuỗi giá trị và khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp. Trong giai đoạn tới, công nghiệp của tỉnh sẽ phát triển theo định hướng sau: tập trung hoàn chỉnh hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; chú trọng phát triển ngành công nghiệp chế biến, liên kết với ngành nông nghiệp khai thác, sử dụng triệt để và có hiệu quả nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp; tập trung ứng dụng công nghệ cao cho phát triển điện năng lượng; phát triển các dự án năng lượng tái tạo và các dự án điện lưới phân phối, truyền tải; khai thác hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo trên địa bàn tỉnh.

Để thực hiện định hướng này, Bến tre đã đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn sau:

Thứ nhất là giai đoạn 2021 - 2025 phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng bình quân 11,6% /năm. Hoàn chỉnh hạ tầng và đưa vào hoạt động KCN Phú Thuận; hoàn chỉnh hạ tầng đưa vào hoạt động 05/12 CCN theo quy hoạch (ưu tiên phát triển các cụm ven biển); kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cải tiến công nghệ ngành công nghiệp chế biến dừa và thủy sản.

Thứ hai là giai đoạn 2026 - 2030 phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng bình quân 11%/năm. Triển khai phát triển 03KCN; hoàn chỉnh hạ tầng và đưa vào hoạt động thêm ít nhất 02/12 CCN theo quy hoạch; tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Để hoàn thành các mục tiêu trên, ngành Công Thương của tỉnh Bến Tre đã đề xuất một số kiến nghị và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn tinh.

Về thực hiện triển khai một số giải pháp trong thời gian tới: Tiếp tục thực hiện rà soát, điều chỉnh quy hoạch các khu, cụm công nghiệp phù hợp với nhu cầu và tình hình thực tế của địa phương. Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng để phục vụ nhu cầu phát triển công nghiệp. Đẩy mạnh hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp, tăng cường hoạt động hỗ trợ khoa học công nghệ và khuyến công. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xúc tiến thương mại. Thực hiện tốt việc cung ứng điện phục vụ sản xuất công nghiệp. Thực hiện tốt giải pháp về đất đai và các biện pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất, phát triển công nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, liên quan đến thu hút đầu tư và hoạt động của doanh nghiệp.

Một số kiến nghị: Bộ Công Thương hỗ trợ vốn ngân sách giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch, xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp để thu hút đầu tư thứ cấp; hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới, ứng dụng thiết bị tiên tiến vào sản xuất. Bộ cho chủ trương để tỉnh Bến Tre tiến hành thực hiện các thủ tục điều chỉnh, bổ sung tiềm năng quy mô công suất điện gió, điện mặt trời, phương án đấu nối và tiến độ thực hiện các dự án vào Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 - 2025, xét đến năm 2035. Bổ sung Quy hoạch 03 trạm 220kV tại 3 huyện biển gồm: Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú vào Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, thi công trong giai đoạn 2019 - 2020 để các dự án năng lượng tái tạo có thể hòa vào lưới điện quốc gia, truyền tải hết công suất các nhà máy điện giai đoạn sau năm 2020.

Nguồn: Báo cáo Sở Công Thương tỉnh Bến Tre

 

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại

BÀI VIẾT KHÁC