Bối cảnh và những vấn đề đặt ra
Ngày 26/9/2017, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố Báo cáo thường niên về năng lực cạnh tranh (NLCT) toàn cầu (GCR 2017- 2018), trong đó Việt Nam tăng năm bậc so với năm 2016. Theo báo cáo này,Việt Nam được xếp hạng 55 trên 137 quốc gia, là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF đưa ra chỉ số NLCT toàn cầu tổng hợp vào năm 2006. Với thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như Philippines (56), Campuchia (94), Lào (98), nhưng xếp dưới Indonesia (36), Thái Lan (32), Malaysia (23), Singapore (3), và hai nền kinh tế lớn của châu Á là Trung Quốc (27) và Ấn Độ (40). Nhìn lại 10 năm qua, NLCT toàn cầu của Việt Nam đã cải thiện khoảng 15 bậc, từ hạng 70-75 lên 55- 60; Việt Nam đã dịch chuyển từ nửa dưới lên nửa trên bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu. Nhìn kỹ hơn vào giai đoạn 5 năm gần đây (2012-2017), NLCT toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam có xu hướng cải thiện rõ nét, từ hạng 75 năm 2012 lên hạng 55 năm 2017. Việc đạt thứ hạng 55 trong bảng NLCT toàn cầu năm 2017 là một chỉ dấu đáng khích lệ cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, nếu xét riêng theo từng nhóm yếu tố thành phần cấu thành chỉ số NLCT tổng hợp thì Việt Nam chỉ đứng trên Campuchia và Lào trong số các nước kể ở trên.
Năm 2018, báo cáo NLCT toàn cầu vừa được WEF công bố,Việt Nam đứng thứ 77 trong 140 nền kinh tế, với 58,1 điểm trên thang 100. Thứ hạng năm ngoái là 74 trên 135. Trong 12 trụ cột, Việt Nam được đánh giá cao nhất là Sức khỏe, với 81 điểm, đứng thứ 68. Thấp nhất là Năng lực Sáng tạo, chỉ đạt 33,4 điểm, đứng thứ 82. Chỉ số về Tự do kinh tế toàn cầu (Economic Freedom Index) do Viện Heritage thiết lập cũng cho thấy trong 4 năm gần đây, xếp hạng của Việt Nam vẫn dao động xung quanh con số 147 và 148, thuộc hạng thấp nhất khu vực, thấp hơn cả Lào và Campuchia.
Tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu quốc tế, nguồn lao động rẻ và dồi dào…chính là những lợi thế hiện có của Việt Nam - lợi thế dựa trên các điều kiện sản xuất vốn có. Theo M.Porter, lợi thế đang có của Việt Nam là lợi thế cấp thấp, lợi thế “trời cho”, lợi thế có được mà không cần phải có những đầu tư lớn về vốn và tri thức - lợi thế so sánh tĩnh. Lợi thế này thường không vững chắc và chỉ mang tính ngắn, trung hạn (5- 7 năm) nếu như các điều kiện sản xuất vốn có không được liên tục tái tạo, phát triển lên một mức độ cao hơn.
Tự do hoá và hội nhập đã tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Với kim ngạch xuất nhập khẩu gấp hơn 2 lần GDP trong những năm gần đây, Việt Nam được xem là quốc gia có nền kinh tế với “độ mở ”khá cao. Bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung quá trình hội nhập kinh tế chưa thực sự “khắc họa” được những tác động tích cực, mang tính dài hạn. Hơn 10 năm qua, kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế dần phát triển ổn định, vững chắc hơn, nhưng có không ít doanh nghiệp (DN), kể cả DN có quy mô lớn, có thương hiệu, có thị trường …đã suy yếu trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Khả năng thích ứng với kinh tế thị trường, khả năng chủ động khai thác cơ hội của chúng ta còn rất yếu. Việt Nam mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh mang tính ngắn hạn, chưa tận dụng được các lợi ích động mang tính dài hạn, đặc biệt là việc tạo động lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy tối đa nội lực nhằm “bước lên” những “nấc thang” có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế địa kinh tế, chính trị của đất nước...
Với việc thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, sức ép cạnh tranh trên thương trường tới từng chủ thể kinh doanh trong giai đoạn tới sẽ gia tăng mạnh mẽ. Các tập đoàn, các hãng danh tiếng, có nhiều tiềm lực trong cạnh tranh sẽ xuất hiện nhiều ở Việt Nam; người Việt Nam ở nước ngoài sẽ quay về quê cha đất tổ để làm ăn; các công ty cổ phần sẽ xuất hiện ngày càng nhiều... Nếu tính thêm tác động của chính sách mở cửa trong quan hệ đối ngoại, sự đẩy mạnh hoạt động mậu dịch biên giới... sẽ làm cho cường độ cạnh tranh quốc tế ngay trên đất Việt Nam sẽ gia tăng nhanh so với những năm trước đây. Đó là tín hiệu đáng mừng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng đồng thời đặt ra nhiêu vấn đề cần giải quyết cả ở tầm chính sách vĩ mô lẫn tác nghiệp và chiến lược kinh doanh của mỗi DN.
Việc loại bỏ hàng rào phi thuế quan luôn luôn là yêu cầu đồng hành với cắt giảm thuế quan trong mọi hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp phi thuế mà không có lý do chính đáng theo các quy định của WTO, ASEAN/ AFTA, FTA…. Như vậy, nhiều DN sẽ phải đối mặt với không ít thách thức do nguy cơ gia tăng cạnh tranh của hàng nhập khẩu.
Cạnh tranh là nguyên tắc có tính nền tảng, nguyên tắc có tính hiến pháp của kinh tế thị trường, nó đòi hỏi các DN phải hoạt động có hiệu quả và thường xuyên nâng cao hiệu quả để thu được lợi nhuận. Những DN nào yếu kém, thua lỗ sẽ bị phá sản, các nguồn lực của DN đó sẽ được chuyển sang các DN khác, hoạt động có hiệu quả hơn chứ không bị mất đi. Chính vì vậy mà nhà kinh tế Mỹ gốc Áo Alois Schumpeter đã coi “phá sản là một sự tàn phá sáng tạo”(creative destruction).
Cường độ cạnh tranh càng cao, càng khốc liệt thì tham vọng vươn tới độc quyền càng lớn và chắc chắn sẽ xuất hiện ngày càng nhiều thủ đoạn để né tránh sức ép của cạnh tranh. Mặt khác, khi đó “vùng hoạt động” tối ưu (hay còn gọi là khe hở thị trường) của mỗi DN có xu hướng bị thu hẹp. Chính vì vậy “đối sách kinh doanh ” để tồn tại của các DN thời gian vừa qua chắc không còn phù hợp, phải thay đổi. Trong cạnh tranh, các DN nhỏ thường rơi vào thế bất lợi nhưng đồng thời lại làm nảy nở ở đây tính linh hoạt, năng động, thích ứng nhanh nhằm tìm ra những cơ hội mới của thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải có tầm nhìn, mơ ước lớn, thế chỗ cho sự rời rạc, lạc hậu về công nghệ và tư duy kinh doanh hiện tại.
Bài học kinh nghiệm của các nước
Mỗi nước đều trông đợi ở các tập đoàn kinh tế (TĐKT) sẽ kết hợp được sức mạnh của các doanh nghiệp với việc theo đuổi các mục tiêu xã hội tương ứng - tức là trông đợi vào tính hiệu quả kinh tế và tính công bằng xã hội. Song trên thực tế, tình trạng các TĐKT hoạt động kém hiệu quả, trở thành gánh nặng, làm suy yếu cơ sở định hướng và quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước là không nhỏ. Những vấn đề về TĐKT càng nghiêm trọng vào những thời điểm mà Chính phủ phải đương đầu với những khó khăn gay gắt về mặt tài chính. Ví dụ: Vay nợ gặp khó khăn ở các nước chậm phát triển châu Á, châu Phi, chính sách thương mại và đầu tư của các nước Malaixia, Inđônexia, Singgapo... phụ thuộc và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc suy thoái kinh tế TBCN vào những năm đầu thập kỷ 80, tình hình trì trệ trong phát triển kinh tế của các nước Đông Âu ... Điều đó đã buộc các nước phải xem xét các biện pháp khá triệt để nhằm thay đổi bộ mặt các TĐKT. Vì vậy, chương trình cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được đưa ra ở tất cả các nước đang phát triển mà mục tiêu của nó tập trung chủ yếu vào tính hiệu quả của DNNN và được tiến hành đồng thời với các chương trình cải cách kinh tế khác. Hai giải pháp quan trọng đã được áp dụng :
1. Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế
Chương trình cải cách khu vực DNNN ở các nước nói chung đều tập trung vào những giải pháp đối với các TĐKT như: Thu hẹp phạm vi của khu vực kinh tế này bằng cách tiến hành những giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu mà trọng tâm là tiến hành quá trình tư nhân hóa, cổ phần hóa các TĐKT; tiến hành củng cố, cải tiến tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý và tăng cường các biện pháp kiểm soát của nhà nước đối với các TĐKT còn giữ lại. Tư nhân hóa DNNN hay TĐKT là một phương án mạnh trong giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Về cơ sở lý luận, nó giải quyết được mâu thuẫn giữa quyền sở hữu về quyền kinh doanh trong các TĐKT. Vì vậy, tư nhân hóa được coi là liều thuốc “cứu cánh” đối với các nước Đông Âu hiện nay, cũng như ở một số nước - nó được coi là nhân tố xúc tác của quá trình cải cách kinh tế - cuộc đấu tranh sống còn vì hiệu quả. Về mặt nội dung, quá trình tư nhân hóa được tiến hành theo hai bước: i) cổ phần hóa nhằm chuyển các TĐKT thành các Công ty cổ phần trong đó nhà nước nắm tỷ lệ chi phối; ii) bán các cổ phần của nhà nước cho tư nhân - tư nhân hóa. Ở mỗi nước quá trình tư nhân hoá diễn ra có khác nhau nhưng chung quy lại nó được tiến hành theo các cách sau : Một là, tiến hành giải thể các TĐKT làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả; Hai là, tư nhân hóa quyền sở hữu; Ba là, tư nhân hóa công việc quản lý.
Giải thể các DNNN ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu là một trong những nội dung chủ chốt của cải cách khu vực DNNN, nó diễn ra trong điều kiện hết sức đặc thù: xã hội bị biến dạng, cấm đoán cố hữu sở hữu tư nhân… nên việc tìm kiếm các biện pháp, hình thức cụ thể thích hợp để giải thể là vấn đề trung tâm và khó khăn nhất. Có nhiều phương án tư nhân hóa DNNN, song giải pháp có hiệu quả ở các nước Đông Âu là chuyển các DNNN sang chế độ thầu khoán (tập thể lao động có quyền mua DN đó), hoặc DN hợp tác xã hay DN “nhân dân”. Thực chất của giải pháp này là ở chỗ nó chuyển giao sở hữu nhà nước ở từng DN cho tập thể người lao động tại đó theo nguyên tắc có trả tiền nhưng giành sự ưu tiên cho những người làm việc tại DN. Ưu điểm của phương pháp chuyển giao này là các DN vẫn được bảo tồn, trong quá trình thay đổi sở hữu, các DN vẫn hoạt động và nó còn được thừa hưởng một “nguồn vốn vô hình” đó chính là uy tín trong các quan hệ bạn hàng của DNNN trước đây trên thị trường. Mặt khác nó còn đảm bảo được nguyên tắc: quá trình cải cách phải gắn với quá trình phát triển, phát triển phải gắn với hiệu quả; các cổ đông có quyền thực sự tham gia quản trị DN với tư cách là người chủ sở hữu. Hình thức này kết hợp được nguyên tắc tập thể và cổ phần để không hề loại bỏ vai trò quan trọng của các nhà quản lý chuyên nghiệp, mặt khác, vấn đề mang tính xã hội gay gắt của tư nhân hóa là vấn đề người lao động thì giải pháp này phần nào cũng khắc phục được.
Tư nhân hóa quyền sở hữu các TĐKT được tiến hành với quy mô khá rộng rãi ở các nước tư bản phát triển. Ở Anh nó được bắt đầu từ khi Thủ tướng Thát-chơ lên cầm quyền, còn ở các nước chậm phát triển, quá trình này diễn ra chậm hơn. Song, nhìn chung quá trình tiến hành tư nhân hóa gặp phải hai trở ngại lớn: Thứ nhất, vấn đề xã hội của tư nhân hóa là giải quyết công ăn việc làm và thu nhập của một lượng lớn người lao động; Thứ hai là vấn đề xác định lượng vốn Nhà nước thu về ở các TĐKT đem ra cổ phần hóa và việc chống tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa. Ngoài ra còn có các vấn đề khác như: tư nhân không bao giờ mua cổ phần của các TĐKT trước đây làm ăn kém hiệu quả, không có uy tín, việc bán cổ phần cho nước ngoài lại bất lợi ở chỗ nó mang lợi nhuận ra nước ngoài. Một trở ngại nữa cản trở đối với hiệu quả hoạt động của Công ty cổ phần vừa được thành lập từ cổ phần hóa TĐKT là người đại diện cho sở hữu nhà nước được Bộ Tài chính hoặc bộ chuyên ngành cử làm thành viên của HĐQT hay Chủ tịch HĐQT lại trở thành người đứng phía trên Giám đốc điều hành Công ty, nhưng về thực chất anh ta lại không phải là “chủ sở hữu thực sự” đối với những tài sản đó, khi đó lại lặp lại mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh như ở các TĐKT trước đây.
Tư nhân hóa công việc quản lý là bước quá độ của quá trình tư nhân hóa. Về mặt nội dung, đó chính là việc nhà nước cho tư nhân thuê các TĐKT, thậm chí cho cả các Công ty nước ngoài thuê nhằm tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tận dụng nguồn vốn đầu tư... thông qua các hợp đồng ký kết cho thuê cơ sở vật chất kỹ thuật, cung cấp vốn, tạo điều kiện về các chính sách pháp luật (điển hình của giải pháp này là việc cho một Công ty của Mỹ thuê các cơ sở sản xuất của ngành sắt, thép ở Cộng hòa Tôgô).
2. Hoàn thiện cơ chế quản lý và kiểm soát của nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế
Đây là giải pháp hết sức quan trọng đối với các TĐKT còn giữ lại. Về thực chất giải pháp này nhằm giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và TĐKT trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối nhằm đảm bảo cho TĐKT một cơ chế vận hành phản ứng linh hoạt với thị trường, đảm bảo vừa đạt được hiệu quả kinh tế vừa đảm bảo thực hiện các mục tiêu xã hội. Giải pháp này cho phép giải quyết mối quan hệ giữa quyền tự quyết của DN với sự can thiệp - kiểm soát của nhà nước - với tư cách là người chủ sở hữu, cho phép phân định rõ chức năng quản lý hành chính và chức năng quản lý kinh doanh. Vì vậy nó được giải quyết ở một số điểm sau đây:
- Làm rõ các chính sách chỉ đạo của nhà nước đối với TĐKT, trong khuôn khổ đó xác định rõ các mục tiêu phi thương mại. Vì rằng các mục tiêu chính là tiền đề cho cuộc cải cách kinh tế, nhằm trao quyền tự chủ lớn hơn cho các nhà quản lý TĐKT, từ các mục tiêu đặt ra cho TĐKT mà xác định được cơ chế quản lý của nhà nước đối với TĐKT.
- Hệ thống thể chế đồng bộ của quản lý vĩ mô tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho TĐKT đi đôi với tăng cường tính chủ động của đơn vị cơ sở. Điều này đòi hỏi nhà nước phải tạo lập những điều kiện cần thiết về pháp lý và tổ chức - kinh tế cũng như các công cụ.
Từ kinh nghiệm cải cách DNNN của một số quốc gia cho thấy, cần phải xây dựng được hai hệ thống làm công cụ cho việc tăng cường quản lý TĐKT và tăng cường kiểm soát của nhà nước đối với TĐKT theo các nội dung nêu trên, đó là hai hệ thống: hệ thống báo hiệu và hệ thống hợp đồng kinh tế.
Hệ thống báo hiệu được sử dụng để đánh giá các kết quả hoạt động của TĐKT, nó bao gồm :
- Hệ thống đánh giá kết quả thực hiện: mục tiêu, lượng (gần như là định mức) kết quả thực hiện ứng với các mục tiêu đề ra cho các TĐKT.
- Hệ thống thông tin kết quả thực hiện nhằm giám sát kết quả thực tế đạt được theo tiêu chuẩn trên.
- Hệ thống khuyến khích gắn quyền lợi giữa nhà nước, người quản lý, và công nhân thông qua hệ thống khen thưởng, phân phối thu nhập theo các kết quả thực hiện.
Như vậy, thay vì trước đây nhà nước không có một hệ thống tiêu chuẩn hiệu quả đánh giá kết quả hoạt động của TĐKT và một chế độ khuyến khích, cổ vũ người lao động, thì hệ thống tiêu chuẩn đã lượng hóa về mặt giá trị kết quả đem lại do TĐKT thực hiện hai mục tiêu: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Chế độ phân phối không những có tác dụng khuyến khích mà còn gắn chặt chẽ kết quả đạt được, tự chịu trách nhiệm đến tận người lao động.
Hệ thống hợp đồng kinh tế đã được thử nghiệm có kết quả ở Băng La Đét, Trung Quốc, Bolivia, Pháp và một số nước. Hệ thống này đưa ra một hợp đồng giữa chính phủ và TĐKT, trong đó làm rõ các mục tiêu đặt ra cho các TĐKT dựa trên nền tảng cụ thể hóa các mục tiêu đó để gắn với trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích cần tôn trọng của từng bên. Các hợp đồng định ra dựa trên nguyên tắc thỏa thuận.
Công cụ này có ưu điểm ở chỗ nó thay thế việc kiểm soát tuỳ tiện của chính phủ. Mặt khác, việc kiểm soát thuộc về chức năng quản lý hành chính của nhà nước trong điều kiện này được các TĐKT chấp nhận kiểm soát một cách tự nguyện và thực hiện các mục tiêu kiểm soát cũng là tự nguyện, đây là bước mới hẳn để vừa đảm bảo tăng cường được quyền tự chủ của TĐKT, vừa tăng cường được sự kiểm soát của nhà nước đối với kết quả hoạt động của TĐKT.
Giải pháp cho thời gian tới
Cuộc cách mạng 4.0 đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, tác động đến tất cả phương diện, từ quản trị nhà nước đến thị trường. Doanh nghiệp vừa là trung tâm, vừa là động lực phát triển của công nghệ, ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới vào thực tiễn đời sống. Các hoạt động thương mại, dù ở quy mô hay hình thức nào đi nữa cũng có thể mô phỏng như một hình tam giác với ba chữ C ở ba đỉnh: Company itself (công ty hay người kinh doanh); Customer (người mua) và Competitor (đối thủ cạnh tranh). Trong mô hình này, mối quan hệ giữa các bên luôn thay đổi và biến động tùy theo môi trường bên ngoài và sự biến động này có chu kỳ ngày càng ngắn lại. Mọi sự đóng khung hay cố định sẽ dẫn đến những tổn thất không lường trước. Kinh doanh luôn tiềm ẩn những rủi ro, nhưng đó cũng là cơ hội cho những ai biết nhận ra. Để có thể kinh doanh bền vững, người kinh doanh cần hiểu được mối tương quan giữa ba chữ C này để tạo lập thế cân bằng phù hợp với môi trường.
Nâng cao khả năng cạnh tranh trên cả 3 cấp độ: sản phẩm - doanh nghiệp - quốc gia, cũng như chuẩn bị nguồn nhân lực để có thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập đang là một yêu cầu mang tính thời sự; một đòi hỏi cấp bách đặt ra cho chúng ta. Hiện tại, cơ cấu tổ chức của các TĐKT phần lớn theo nguyên tắc kim tự tháp, đáy là toàn thể công nhân gánh toàn bộ cơ cấu trên vai, và các cấp bậc kiểm soát chồng chất lên nhau cho đến đỉnh. Dù hệ thống tổ chức có logic tới đâu thì vẫn ẩn chứa mầm mống của bệnh quan liêu. Toàn bộ hệ thống cấp bậc, bức vách ngăn, cấu trúc phức tạp về quản trị này đã hạn chế sự nhạy bén của các TĐKT với thị trường. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai một chiến lược thành công.
i. Về xã hội hóa quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Đời sống kinh tế nói chung và thực tiễn kinh doanh nói riêng luôn luôn là một phần không tách rời của đời sống con người.Trong điều kiện nước ta, Luật sư Nguyễn Tiến Lập - Trọng tài viên VIAC cho rằng hãy thử nghiệm chuyển các điều kiện kinh doanh thành tiêu chuẩn kinh doanh và mặt khác, cần giảm thiểu sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước vào đời sống kinh tế thông qua phương thức được gọi là “xã hội hóa quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp”. Theo đó có ba biện pháp cần thực thi :
- Ngoại trừ các lĩnh vực nhà nước cần duy trì việc cấp phép, chuyển các lĩnh vực còn lại, bao gồm cả lĩnh vực tự do kinh doanh (không kèm điều kiện như hiện nay) sang quản lý bằng hệ thống các tiêu chuẩn, thay vì các điều kiện kinh doanh. Hệ thống các tiêu chuẩn kinh doanh cho từng lĩnh vực và ngành nghề sẽ bao gồm nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc vào sự đòi hỏi ở tính chuyên nghiệp của lĩnh vực và ngành nghề đó; đồng thời được phân loại thành tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng theo quy định của pháp luật và tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng theo cam kết của DN. Khác với các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành, hệ thống tiêu chuẩn này được thiết lập chỉ nhằm khuyến khích các quan hệ thương mại lành mạnh và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Mục tiêu hướng tới là tạo điều kiện dễ dàng và thông thoáng nhất cho sự khởi nghiệp và gia nhập thị trường của tất cả mọi người, trên cơ sở đó các DN sẽ tự phấn đấu để đạt các chuẩn bắt buộc và mong muốn trong quá trình kinh doanh.
- Để tránh mọi sự áp đặt chủ quan, duy ý chí và phi thực tế của các cơ quan nhà nước khi thiết lập các tiêu chuẩn kinh doanh, hãy để các hiệp hội ngành hàng và DN tự xây dựng các tiêu chuẩn kinh doanh theo khuyến nghị hoặc sự phê chuẩn sau đó của các cơ quan nhà nước. Trong điều kiện của nước ta, để áp dụng nó thì cần khẩn trương ban hành Luật về Hội để tạo điều kiện cho các hiệp hội về DN được thành lập, tổ chức và hoạt động theo hướng chuyên nghiệp.
- Thông qua chính sách và quy định pháp luật, khuyến khích và tăng cường tối đa sự tự giám sát của xã hội và thị trường đối với việc tuân thủ các tiêu chuẩn kinh doanh của các DN, giảm thiểu sự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước xuống mức tối thiểu cần thiết, song song với việc hoàn thiện và bảo đảm có hiệu lực của hệ thống tư pháp. Các thiết chế giám sát phi nhà nước sẽ bao gồm sự tham gia của các chủ thể như hiệp hội DN, hội bảo vệ người tiêu dùng, ngân hàng và các chế định tài chính, công ty bảo hiểm, công đoàn và nghiệp đoàn cũng như chính các đối tác và khách hàng của DN.
ii. Vấn đề tuyển chọn tổng giám đốc/giám đốc (TGĐ/GĐ) các TĐKT
Trình độ lãnh đạo và quản lý DN thể hiện ra trong việc hoạch định chiến lược, xây dựng các phương án kinh doanh, thiết kế loại hình và cơ cấu bộ máy của doanh nghiệp cũng như khả năng lãnh đạo tập thể người lao động, kiểm tra, kiểm soát các kênh hoạt động. Nhà quản lý cũng cần phải có hiểu biết sâu sắc về con người và lao động tập thể. Trong thời gian tới việc tuyển chọn tổng giám đốc/giám đốc (TGĐ/GĐ) các TĐKT phải được đổi mới một cách căn bản, không nên tiếp tục cách làm lâu nay là một số cá nhân hoặc cơ quan quản lý nhà nước lựa chọn theo những tiêu thức tĩnh tại và chứa đầy các yếu tố chủ quan, cảm tính. Với chức năng là người điều hành hoạt động của TĐKT theo những quy định, mục tiêu, nhiệm vụ của HĐQT, TGĐ/GĐ phải do HĐQT tuyển chọn công khai bằng hình thức thi tuyển và ký hợp đồng (sau khi đã trúng tuyển). Nội dung và phương pháp thi tuyển Giám đốc là vấn đề cần nghiên cứu nhưng nên theo trình tự chung sau đây:
- Xét chọn những người đủ điều kiện để tham gia thi tuyển. Những điều kiện chủ yếu bao gồm: trình độ kinh tế - kỹ thuật chuyên môn phù hợp với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, năng lực tổ chức thực hiện, quản lý điều hành (thể hiện qua thực tiễn công tác); và những phẩm chất chủ yếu như: năng động, dám chịu trách nhiệm, tính quyết toán, tính trung thực, tính tuân thủ pháp luật, tính kỷ luật...
- Tham dự thi tuyển theo bộ đề thi lý thuyết và thực hành trong đó có phần xây dựng hoặc xử lý các phương án tổ chức sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp một cách có hiệu quả. Nội dung bộ đề thi là một vấn đề cần nghiên cứu biên soạn để có thể phản ánh tương đối chính xác, trình độ năng lực và phẩm chất của giám đốc doanh nghiệp .
- Ký hợp đồng dưới hình thức “Hợp đồng thuê giám đốc” giữa HĐQT và TGĐ/GĐ. Nội dung hợp đồng này cần phải rõ những vấn đề cụ thể sau:
+ Những nhiệm vụ thường xuyên và không thường xuyên của TGĐ/GĐ trong việc điều hành sản xuất, kinh doanh.
+ Những quyền hạn cụ thể của TGĐ/GĐ trong điều hành và giải quyết các mối quan hệ với các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mỗi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài v.v...
+ Chế độ trách nhiệm về vật chất, về hành chính và về hình sự của TGĐ/GĐ trước HĐQT và trước pháp luật.
+ Chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao và các đãi ngộ vật chất, tinh thần mà TGĐ/GĐ được hưởng từ việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
+ Mối quan hệ giữa HĐQT với TGĐ/GĐ trong công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp, chế độ trách nhiệm cụ thể của HĐQT đối với TGĐ/GĐ.
TGĐ/GĐ phải chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng. HĐQT mà trực tiếp là Ban kiểm soát có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc chấp hành hợp đồng này.
Để thực hiện chủ trương “Giám đốc do HĐQT tuyển chọn và ký hợp đồng với sự chấp nhận của cơ quan hành chính có thẩm quyền” (NQ TW4). Cần thiết phải thành lập những trung tâm (trường) đào tạo giám đốc và dần hình thành một “thị trường giám đốc” để có thể tuyển chọn được những giám đốc có đủ trình độ và năng lực cho các doanh nghiệp. Như vậy công việc quản lý của nhà nước chủ yếu là tổ chức, quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và điều tiết “thị trường giám đốc”, tạo nên môi trường cho các HĐQT và cơ quan hành chính có thẩm quyền lựa chọn, tuyển dụng.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin Thư viện và Xúc tiến thương mại