Trong những năm gần đây, tỉnh Bắc Giang bứt phá để đứng vào tốp đầu các tỉnh thu hút đầu tư lớn của cả nước. Nhờ đó mà quy mô nền kinh tế toàn tỉnh đã tăng hơn 1,6 lần so với năm 2015. Tăng trưởng kinh tế duy trì đà tăng liên tục, năm sau cao hơn năm trước kể từ đầu nhiệm kỳ 2016 - 2020. Năm 2019, cao nhất ước đạt 16,2% (đứng thứ 2 cả nước sau thành phố Hải Phòng 16,8%); trong đó: công nghiệp - xây dựng tăng 26,4%, và tiếp tục khẳng định vai trò là động lực chính cho tăng trưởng của tỉnh, đóng góp 15,2 điểm %. Quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh tăng 19%, ước đạt 108.915 tỷ đồng, tương đương khoảng 4,7 tỷ USD (đứng thứ 2 vùng sau tỉnh Thái Nguyên). GRDP bình quân đầu người, ước đạt 2.620 USD, bằng 93,5% so với cả nước, tăng 13,9% so với năm 2018.
Năm 2019, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt mức tăng trưởng khá, tăng 36% so với cùng kỳ 2018; cơ cấu ngành công nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; giảm tỷ trọng ngành công nghiệp khai khoáng. Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh ước đạt 8,6 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ ước đạt hơn 29 nghìn tỷ đồng tăng 15,5% so năm 2018.
Thực trạng phát triển ngành công nghiệp
Toàn tỉnh hiện có 19.247 doanh nghiệp trong đó có 1.320 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp bao gồm các lĩnh vực khai thác, chế biến, sản xuất phân phối điện, khai thác cung cấp nước... cụ thể:
Sản xuất công nghiệp khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn ổn định và phát triển, chiếm tỷ trọng chi phối trong giá trị sản suất công nghiệp toàn tỉnh, năm 2019 ước đạt 149.398 tỷ đồng, chiếm 85,3% tổng giá trị sản xuất. Công nghiệp chủ yếu thuộc các lĩnh vực: điện tử, may mặc, phân bón, vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản, chế biến nông sản. ..
Trong giai đoạn 2016 - 2019 một số sản phẩm công nghiệp vẫn duy trì mức tăng trưởng cao như: Đạm phân NPK tăng 18,5%, xi măng tăng 28,4 %, gạch xây dựng tăng 27,2%, sản phẩm may mặc tăng 42 %, linh kiện điện tử tăng 57,8% và điện sản xuất tăng 11 %.
Năm 2020, tỉnh phấn đấu tốc độ phát triển kinh tế ước đạt 17.1 %, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá thực tế) ước đạt 225.622 tỷ đồng, (theo giá so sánh năm 2010); giá trị xuất khẩu ước đạt 9,5 tỷ USD; tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ đạt hơn 32 nghìn tỷ đồng. GRDP bình quân 3025 USD/người, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nằm trong tốp 10 tỷ USD.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề có bước phát triển khá: Hiện trên địa bàn tỉnh có 435 làng có nghề trong đó có 39 làng nghề được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận, ngoài ra còn có gần 14,3 nghìn cơ sở sản xuất tiểu thủ công với các ngành nghề như chế biến nông, lâm sản, sản xuất cơ khí, vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, dệt thổ cẩm, làm giấy gió... những ngành nghề trên thu hút đáng kể lực lượng lao động tại chỗ và lao động từ các nơi khác đến. Giá trị sản xuất của các làng nghề hàng năm đạt khoảng 850 tỷ đồng. Một số sản phẩm của làng nghề đã được xuất khẩu đi đến các thị trường nước ngoài (mây tre đan) và là sản phẩm trao đổi mua bán phục vụ khách du lịch tại các điểm, tuyến du lịch của địa phương và toàn quốc (thủ công mỹ nghệ).
Quy hoạch và kết cấu hạ tầng giao thông, các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn đã được tỉnh tập trung đẩy mạnh đầu tư phát triển. Bắc Giang có 6 khu công nghiệp với tổng diện tích 1.462 ha. Trong đó có 5 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích quy hoạch 1.255 ha bao gồm: khu công nghiệp Đình Trám, Song Khê - Nội Hoàng, Quang Châu, Vân Trung, Hòa Phú. Các khu công nghiệp đều nằm ngay trên quốc lộ 1A nên rất thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Hiện tổng số dự án đầu tư đã thu hút, thực hiện của tỉnh Bắc Giang là 1.482 dự án; trong đó có 1.134 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký đạt trên 81.900 tỷ đồng và 348 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký đạt trên 4,13 tỷ USD. Các dự án công nghiệp ở tỉnh Bắc Giang chủ yếu là sản xuất, gia công linh kiện điện tử; dự án sản xuất vật liệu xây dựng (chủ yếu là sản xuất gạch nung; dự án sản xuất, gia công hàng may mặc; dự án sản xuất, gia công cơ khí; còn lại là các dự án trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến gỗ; chế biến nông sản; sản xuất nước sạch; chế biến khoáng sản… Đến nay đã có 12 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trong đó nhiều nhất là các nhà đầu tư Hàn Quốc, tiếp đến là Trung Quốc, Nhật Bản, còn lại là các quốc gia khác. Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 90.000 lao động với thu nhập bình quân của người lao động trong các khu công nghiệp hiện đạt khoảng trên 6,5 triệu đồng/người/tháng. Toàn tỉnh có 40 cụm công nghiệp với tổng diện tích 1.384,3 ha, trong đó đã có 23 cụm công nghiệp có chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng kĩ thuật với tổng diện tích 1.132ha, thu hút 227 dự án đang triển khai đi vào hoạt động.
Về công nghiệp điện: Trên địa bàn tỉnh đã xây dựng 12 trạm biến áp 110 kV với tổng công suất lắp đặt 1.097MVA.Trong đó, xây dựng 5 trạm biến áp với công suất 538 MVA. Tỉnh đã mở rộng nhà máy nhiệt điện Sơn Động; xây dựng nhà máy nhiệt điện An Khánh công suất 650 MW; ưu tiên xây dựng nhà máy Điện Pin năng lượng mặt trời tại huyện Yên Thế; điện gió tại huyện Sơn Động; tiếp tục kêu gọi các dự án sản xuất pin năng lượng mặt trời tại các khu công nghiệp, gắn với việc xử lý môi trường. Đáng chú ý, trong số các dự án sản xuất công nghiệp ở tỉnh có 8 dự án sản xuất pin năng lượng mặt trời (đều là các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài), điều này cho thấy, lĩnh vực sản xuất pin năng lượng mặt trời cũng thu hút được khá nhiều các nhà đầu tư quan tâm.
Về công nghiệp cung cấp nước: Nhằm đáp ứng được 100 % nhu cầu dùng nước của nhân dân nội, ngoại thị thành phố Bắc Giang và các khu, cụm công nghiệp phụ cận. Công ty nước sạch Bắc Giang đã nâng công suất nhà máy từ 25.000m³/ngày đêm lên 35.000m³/ngày đêm, trong thời gian tới công ty sẽ hoàn thành 02 dự án cấp nước. Đặc biệt, tại xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang đã hoàn thành xây dựng nhà máy nước sạch do Công ty cổ phần Đầu tư hạ tầng nước Bắc Giang làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư lên gần 1.500 tỷ đồng đi vào vận hành năm 2018 với công suất 59.000m³ /ngày đêm và có thể mở rộng đến 80.000m³/ngày đêm, đáp ứng nước sạch đạt tiêu chuẩn cao nhất cho nhu cầu sinh hoạt, thương mại và sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Mặc dù, tốc độ tăng trưởng công nghiệp ở Bắc Giang đạt được kết quả khả quan nhưng vẫn còn tồn tại, hạn chế sau:
Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ quy hoạch, quản lý quy hoạch phát triển công nghiệp còn yếu, quy hoạch phát triển công nghiệp chưa đồng bộ với các quy hoạch hạ tầng khác; năng lực của chủ đầu tư được giao nhiệm vụ lập quy hoạch và đơn vị tư vấn lập quy hoạch khu, cụm công nghiệp còn hạn chế; thủ tục giao đất, cho thuê đất còn mất nhiều thời gian, chưa có tính liên thông giữa các cơ quan; công tác bồi thường giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, tiến độ đầu tư của nhiều dự án còn quá chậm so với cam kết; Bắc Giang chưa có cơ chế chính sách riêng để ưu đãi, thu hút đầu tư vào trong và ngoài các khu, cụm công nghiệp; chưa có ngành công nghiệp chủ lực đóng vai trò dẫn dắt, chưa tận dụng được việc chuyển giao công nghệ khoa học, trình độ quản trị từ doanh nghiệp FDI cho doanh nghiệp trong nước; chất lượng hiệu quả thu hút đầu tư chưa cao, đặc biệt là các dự án đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp, chưa thu hút được nhiều dự án quy mô lớn; nhiều dự án không triển khai được phải thu hồi; tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký; tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp chưa phản ánh đúng bản chất, giá trị gia tăng trong đơn vị sản phẩm thấp; lực lượng lao động trong ngành công nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông, tay nghề thấp, ý thức tổ chức lao động công nghiệp còn yếu.
Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trên là do các cơ chế chính sách liên quan đến phát triển các khu công nghiệp, khu công nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành có nhiều thay đổi, chậm được ban hành. Công tác phối hợp còn nhiều hạn chế nhận thức của một số cấp ủy chính quyền nhất là ở cơ sở về chủ trương phát triển công nghiệp còn chưa đầy đủ; trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản lý và ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ....
Mục tiêu và định hướng phát triển công nghiệp
Để phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, chuyển dần từng bước từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu. Đến năm 2030, Bắc Giang phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp phát triển. Tỉnh đã đưa ra một số
mục tiêu cụ thể: Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 1.239.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt 21,9%/năm. Theo đó, tỉnh phát triển công nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sử dụng ít tài nguyên, nhiên liệu, có giá trị gia tăng cao, hướng tới mục tiêu xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2045 thành lập và mở rộng thêm nhiều khu, cụm công nghiệp. Nâng cao giá trị gia tăng các ngành sản xuất, phấn đấu chuyển sang xu hướng gia tăng tỷ trọng VA/GO (giá trị tăng thêm công nghiệp trong giá trị sản xuất công nghiệp).
Nhằm hiện thực hóa những mục tiêu đã đặt ra, tỉnh Bắc Giang đưa ra định hướng để phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn tới như sau:
Ưu tiên phát triển công nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập, đảm bảo tính liên kết trên cơ sở phân bổ hợp lý về không gian lãnh thổ, về cơ cấu ngành công nghiệp.
Phát triển công nghiệp có chọn lọc, tập trung ưu tiên phát triển những ngành hàng và sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có giá trị chất xám cao.
Chú trọng phát triển các ngành nghề truyền thống và các ngành nghề tạo ra sản phẩm du lịch nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động .
Phát triển công nghiệp phải gắn liền với bảo vệ môi trường theo các chuẩn mực, tiến tới công nghệ xanh gắn liền với bảo vệ an ninh quốc phòng.
Phát triển công nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung thu hút các dự án sản xuất các sản phẩm chế biến hướng đến xuất khẩu, tạo ra chuỗi giá trị toàn cầu với các sản phẩm.
Cuối cùng đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, các khu, cụm công nghiệp, thực hiện hiệu quả các hoạt động khuyến công, tư vấn hỗ trợ phát triển công nghiệp, đảm bảo điện cho sản xuất./.
Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Bắc Giang
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại