BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Đến năm 2030, Tây Ninh phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại

17/04/2020
Phấn đấu đến  năm 2030, tỉnh cơ bản hoàn thành mục tiêu CNH – HĐH, tỉnh sẽ ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp chế biến, nhất là sản phẩm chế biến xuất khẩu có sức cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước và từng bước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu

Năm 2019, ngành công nghiệp Tây Ninh phát triển trong điều kiện chịu sự tác động tiêu cực chung từ nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng đã làm giảm nguồn nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến hàng từ nông sản. Trong bối cảnh như vậy, ngành công nghiệp tỉnh Tây Ninh đã nỗ lực phấn đấu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra với nhiều kết quả tích cực. Đặc biệt là, giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 (theo giá so sánh 2010): ước tăng bình quân khoảng 16%/năm vượt chỉ tiêu so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đề ra chỉ là 14,5%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp thực hiện 5 năm ước đạt 391.019 tỷ đồng tăng 2,05 lần so với thời kỳ 2011 - 2015. Tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm (GRDP) năm 2020 ước đạt 38,4%. Số lao động có việc làm tăng thêm hằng năm 18.915 lao động. Ngành công nghiệp tiếp tục phát triển với ngành nghề đa dạng hơn, đặc biệt đã thu hút được một số dự án lớn, giá trị gia tăng cao, bắt đầu có đóng góp chủ yếu cho tốc độ tăng GRDP của tỉnh.

Trong giai đoạn này, nhiều sản phẩm công nghiệp của tỉnh đã và đang khẳng định được vị thế trên thị trường, đã có sản phẩm tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) như Công ty TNHH Brotex, Công ty TNHH Sailun, Công ty TNHH Lu Thai,... một số ngành, lĩnh vực có bước phát triển nhanh, mạnh như: công nghiệp dệt may với nhiều dự án FDI quy mô lớn đầu tư tại các khu công nghiệp có giá trị sản xuất bình quân tăng 29,2%/năm, sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 30%/năm, da và các sản phẩm có liên quan tăng 14,41%/năm, các sản phẩm từ kim loại tăng 13,6%/năm, chế biến thực phẩm và đồ uống tăng 4,36%/năm,... các doanh nghiệp chế biến nguyên liệu từ nông sản đã trở thành nhà cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến tinh (tinh bột mì, đường, hạt điều,...) trong và ngoài nước.

Các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) có nhiều chuyển biến, hiện Tây Ninh có 2 khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK) gồm: KKTCK Mộc Bài diện tích 21,284 ha và KKTCK Xa Mát diện tích 34,198 ha. 15 khu và cụm công nghiệp đã quy hoạch trong đó có 11 khu, cụm công nghiệp đang hoạt động với diện tích quy hoạch hơn 4.000 ha, tỷ lệ lấp đầy tại các khu, cụm công nghiệp chiếm trên 50% so với quy hoạch. Tính đến hết năm 2019 các KCN, CCN đã thu hút được 326 dự án sản xuất, đa phần là các dự án có quy mô lớn. Nhìn chung, công tác quản lý, đầu tư phát triển các KCN và CCNKKTCK thời gian qua  đã có những đóng góp nhất định cho phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai nhiều dự án đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thúc đẩy hình thành những khu vực đô thị mới cùng với nhiều loại hình dịch vụ (tài chính, ngân hàng, dịch vụ tiêu dùng...); tạo thêm nhiều việc làm ổn định, hình thành đội ngũ lao động có tay nghề và tác phong lao động công nghiệp; góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương.

Năng suất lao động các ngành công nghiệp tăng dần hằng năm do doanh nghiệp đã chú trọng đến việc đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại. Việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành đến nay đã có chuyển biến, các dự án có giá trị gia tăng cao được thu hút vào các khu, cụm công nghiệp. Nhiều vùng sản xuất cây công, nông nghiệp kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang đầu tư dự án năng lượng tái tạo có giá trị kinh tế cao, hiện nay Tây Ninh có 09 dự án điện mặt trời với công suất 716 MW đi vào hoạt động góp phần tăng lượng sản xuất điện trên địa bàn tỉnh (2,2 lần so với năm 2018) như vậy ngành công nghiệp năng lượng tái tạo của Tây Ninh đã phát huy tốt tiềm năng, tạo động lực tăng trưởng mới cho tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thì hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế và nguyên nhân như:

Giá trị sản xuất công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng khá nhưng nhìn chung, cơ cấu ngành công nghiệp vẫn còn hạn chế và chưa có sự chuyển biến nhanh. Công nghiệp phát triển chưa thật sự bền vững do tỷ trọng gia công cao, giá trị tăng thêm còn thấp (các dự án thuộc các ngành may, da giày, cơ khí, tiêu dùng).

Tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm còn thấp; ngoài các ngành như chế biến lương thực, thực phẩm, khoáng phi kim loại sử dụng 100 % nguồn nguyên liệu từ địa phương và các tỉnh lân cận, các ngành còn lại đa phần là sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hóa (các dự án FDI).

Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đang giảm dần về tỷ trọng giá trị sản xuất cho toàn ngành, do ảnh hưởng nguồn nguyên liệu đầu vào giảm (cây mì sâu bệnh, cây mía sinh lợi thấp nên diện tích giảm).

Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước chưa xây dựng được thương hiệu, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế; năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu, nhất là về năng suất lao động.

Công nghiệp hỗ trợ phát triển còn chậm, các sản phẩm hỗ trợ còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu, đa phần các doanh nghiệp sản xuất theo đơn hàng. Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ hoạt động chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp trên địa bàn. Ngành công nghiệp cũng chưa thu hút được dự án công nghiệp hỗ trợ, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển công nghiệp công nghệ cao.

Nguồn lực đầu tư phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ phát triển công nghiệp còn hạn chế như hạ tầng giao thông nói chung còn chưa thuận lợi, hệ thống logistics chưa phát triển... nên thời gian vận chuyển hàng hóa về cảng, sân bay chi phí cao, đặc biệt đối với khu vực phía Bắc Tây Ninh.

Những ngành công nghiệp có thế mạnh đều là những ngành có tác động lớn đến môi trường chế biến khoai, mì, dệt nhuộm,..).

Trình độ máy móc, công nghệ cho sản xuất của các doanh nghiệp trong nước đa phần còn ở mức trung bình do yếu về nguồn lực tài chính nên việc đổi mới, nâng cấp máy móc thiết bị còn nhiều hạn chế.

Phần lớn các mặt hàng chế biến từ nông sản xuất khẩu đều chưa xây dựng được thương hiệu riêng, hàng hóa chất lượng kém đồng nhất, chưa tổ chức truy suất được nguồn gốc, khối lượng ít nên khó tham gia vào thị trường mới.

Công tác thu hút đầu tư và việc triển khai dự án tại các khu, cụm công nghiệp và khu kinh tế còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Một số vấn đề phát sinh về ô nhiễm môi trường (tiếng ồn, khói thải, nước thải) chưa được quan tâm giải quyết triệt để.

Trong thời gian tới, để công nghiệp Tây Ninh phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại, tỉnh đã đề ra những quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển trong các giai đoạn tiếp theo.

Phấn đấu đến  năm 2030, tỉnh cơ bản hoàn thành mục tiêu CNH – HĐH, tỉnh sẽ ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp chế biến, nhất là sản phẩm chế biến xuất khẩu có sức cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước và từng bước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu như: sản xuất các sản phẩm tinh sau chế biến, các mặt hàng nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày và thu hút các doanh nghiệp này vào các khu, cụm công nghiệp.

Giai đoạn 2031 - 2045, phấn đấu trở thành tỉnh có ngành công nghiệp phát triển và hiện đại, đạt mức độ khá trong khu vực Đông Nam bộ. Tập trung ưu tiên phát triển các thế hệ mới của ngành công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông; phổ cập công nghệ kỹ thuật số, tự động hoá, thiết bị cao cấp, vật liệu mới, thiết bị sinh học...

Để đạt được các mục tiêu trên, Tây Ninh đã có những định hướng phát triển công nghiệp như: Cơ cấu lại ngành công nghiệp, tập trung ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp theo hướng đáp ứng nguyên tắc về lợi thế cạnh tranh của tỉnh, phát triển một số ngành công nghiệp thân thiện với môi trường, ít phát thải, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm sử dụng đất đai và lao động. Tiếp tục đầu tư mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các khu, cụm công nghiệp có tiện ích đồng bộ, tạo lợi thế cạnh tranh thu hút các dự án đầu tư lớn có công nghệ tiên tiến, sản phẩm có chất lượng và thị trường ổn định.

Đa dạng hóa thu hút đầu tư nước ngoài, quan tâm lựa chọn nhà đầu tư có uy tín, các tập đoàn có thương hiệu quốc tế, có tiềm năng áp dụng khoa học công nghệ, có khả năng liên kết và chuyển giao với Doanh nghiệp trong nước, nhằm khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương.

Xây dựng kế hoạch, chương trình, tiêu chí để phát triển công nghiệp hỗ trợ, tập trung vào các khâu còn yếu của chuỗi giá trị sản phẩm. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực như: chế biến, tinh chế sản phẩm nông nghiệp theo cơ cấu lại nông nghiệp, cơ khí chế tạo, chế tạo, thiết bị công nghiệp, thiết bị điện - y tế… sử dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường; có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao; một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà tỉnh đang có lợi thế.

Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Đấy nhanh việc thực hiện Đề án ứng dụng khoa học và công nghệ trong chương trình nghị sự 2030. Xây dựng và thực hiện Chiến lược tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của Việt Nam. /.

Nguồn: Theo báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Tây Ninh

 

Đinh Thị Bích Liên

Phòng Thông Tin Thư viện và Xúc tiến Thương mại