Nguyễn Việt Hà
Chi bộ Thông tin
Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2025 - 2030 sẽ diễn ra vào ngày 16 tháng 7 năm 2025. Đây là sự kiện chính trị hết sức quan trọng của Đảng bộ, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Công Thương. Văn kiện của Đại hội sẽ là cơ sở để ngành Công Thương triển khai các nhiệm vụ trong thời gian tới, gắn với bối cảnh thế giới, bối cảnh trong nước, gắn với trọng trách quản lý ngành của mình. Đại hội sẽ xác định các nhiệm vụ, chương trình hoạt động cho cả nhiệm kỳ, Nghị quyết của Đại hội sẽ làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngành.
Để tiến tới chào mừng Đại hội, cán bộ, đảng viên Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (VIOIT) đang tích cực đẩy mạnh các phong trào thi đua, phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo tổ chức nhiều hoạt động hướng về Đại hội. Sự kiện trọng đại này không chỉ là dịp để tổng kết những thành tựu đã đạt được của Đảng bộ Bộ Công Thương nói chung mà còn là cơ hội để toàn thể đảng viên và cán bộ VIOIT khẳng định, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng các đề án, kế hoạch phát triển, tư vấn chính sách, thông tin và truyền thông về hoạt động của ngành công thương nói chung, hoạt động của đơn vị nghiên cứu về chiến lược, chính sách Công Thương hàng đầu trong khối các cơ quan nghiên cứu sự nghiệp công lập.
Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ, bốn đột phá tập trung vào đổi mới và cải cách bao gồm: phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hội nhập quốc tế; phát triển khu vực kinh tế tư nhân; và hoàn thiện thể chế, bộ máy nhà nước. Chi tiết hơn, các đột phá này được cụ thể hóa trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân. Các Nghị quyết này là “Bộ tứ trụ cột” để giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng tuy nhiên chúng ta không được chủ quan mà phải tiếp tục không ngừng đổi mới phát huy mọi nguồn lực trong xã hội để đạt được các mục tiêu đề ra.
1. Nhận diện sâu hơn về Nghị quyết số 59-NQ/TW (Nghị quyết 59) của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới
Thế giới đang chứng kiến sự biến đổi sâu sắc, với sự nổi lên của các trung tâm quyền lực mới, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đồng thời cũng xuất hiện nhiều thách thức như cạnh tranh địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình đổi mới và hội nhập, tuy nhiên, để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, đất nước cần phải chủ động và tích cực hơn nữa trong hội nhập quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, và tận dụng tối đa các cơ hội từ bên ngoài. Qua quá trình hội nhập, Việt Nam đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm, cả thành công và thất bại, từ đó có cơ sở để xây dựng một chiến lược hội nhập toàn diện và hiệu quả hơn.
Nghị quyết 59-NQ/TW thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước trong việc xác định hội nhập quốc tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội.
Sự ra đời của Nghị quyết số 59-NQ/TW là quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước, xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn sâu sắc: hội nhập quốc tế không chỉ là mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và rất có bản lĩnh.
Quan điểm xuyên suốt của Nghị quyết là: Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo.
Nghị quyết đề ra những định hướng chiến lược toàn diện và sâu sắc như: Về kinh tế: Đẩy mạnh hội nhập gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hiện đại; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Về chính trị, quốc phòng, an ninh: Hội nhập đi đôi với củng cố quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tăng cường tin cậy chính trị, giữ vững độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước. Về khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường: Tận dụng hội nhập để nâng cao trình độ quốc gia, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định “Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình tới thịnh vượng, hùng cường, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đòi hỏi phải có tâm thế, vị thế mới và tư duy, cách tiếp cận mới về hội nhập quốc tế. Sự ra đời của Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới” là “quyết sách đột phá”, đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập của đất nước với việc định vị hội nhập quốc tế là động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Trong đó hội nhập quốc tế chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới.
Đảng ta xác định hội nhập quốc tế là chiến lược quan trọng nhằm củng cố vị thế chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên bản đồ thế giới. Hội nhập quốc tế đã từng bước phát triển qua các thời kỳ, từ hội nhập có giới hạn, có chọn lọc, thiên về ý thức hệ, hội nhập kinh tế đơn thuần ban đầu đến “hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện” hiện nay. Đại hội Đảng lần thứ IX lần đầu tiên đề ra chủ trương “hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội Đảng lần thứ XI đánh dấu một bước chuyển trong tư duy từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực”. Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị là sự cụ thể hóa đường lối hội nhập quốc tế với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, định hướng chiến lược này một lần nữa được phát triển, hoàn thiện hơn thành “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng có hiệu quả”.
Đứng trước thời điểm lịch sử, đất nước cần những quyết sách lịch sử. Kế thừa những giá trị đã được khẳng định, Nghị quyết 59-NQ/TW đã nắm bắt được dòng chảy của sức mạnh thời đại và “nâng tầm” hội nhập quốc tế với những quan điểm mang tính cách mạng, tính đột phá, tính dân tộc, tính khoa học, tính thời đại cao.
Trước hết, cùng với quốc phòng, an ninh, “đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế” là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Tinh thần trọng yếu thường xuyên trong hội nhập quốc tế là phải tranh thủ nguồn lực, điều kiện thuận lợi bên ngoài cho mục tiêu bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước từ sớm, từ xa; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đảm bảo tốt nhất lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, trong nhận thức, hội nhập quốc tế phải là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể, động lực, lực lượng chủ công và đối tượng thụ hưởng các lợi ích của hội nhập quốc tế. Hội nhập nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc, hội nhập, hòa nhập chứ không hòa tan.
Thứ ba, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở nội lực có vai trò quyết định, gia tăng nội lực đi đôi với với tranh thủ ngoại lực. Nội lực là nguồn lực chính, là gốc rễ cho sức mạnh, vì vậy phải luôn được phát huy để đảm bảo tính chủ động, độc lập, tự cường nhưng đồng thời, cần tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để kết hợp và bổ sung cho nội lực. Kết hợp nhuần nguyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.
Thứ tư, hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, “hợp tác để đấu tranh và đấu tranh để hợp tác. Chú trọng phần đối tác, hạn chế phần đối tượng”. Đồng thời, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trong hội nhập, phải thể hiện đúng tinh thần “đối tác tích cực, có trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế, sẵn sàng đóng góp cho những nỗ lực chung của khu vực và thế giới.
Thứ năm, hội nhập quốc tế phải mang tính chất “đồng bộ, toàn diện, sâu rộng”, trong đó các lĩnh vực phải gắn kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong một chiến lược tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm với lộ trình và bước đi phù hợp.
- Những giá trị cốt lõi của Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới
Thứ nhất, xác lập hội nhập quốc tế là động lực chiến lược. Nghị quyết 59-NQ/TW khẳng định hội nhập quốc tế không chỉ dừng lại ở việc mở cửa, giao lưu mà cần được nhìn nhận là một sự nghiệp tổng hợp, mang tính lâu dài và chiến lược. Hội nhập được xem như một động lực phát triển chủ chốt, giúp Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới với tâm thế chủ động, tự tin và bản lĩnh, đồng thời nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ hai, đổi mới tư duy và cách tiếp cận hội nhập. Nghị quyết thể hiện bước tiến quan trọng về tư duy và phương pháp triển khai hội nhập quốc tế. Từ chỗ chỉ tham gia, tiếp nhận, Việt Nam chuyển sang chủ động đóng góp, dẫn dắt trong các lĩnh vực mới. Điều này phản ánh sự chuyển dịch từ tư thế “đi sau, học hỏi” sang “vươn lên, tiên phong”, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, định hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng. Nghị quyết đặt ra yêu cầu hội nhập phải đồng bộ, chủ động, sâu sắc và thực chất hơn. Phạm vi hội nhập không chỉ gói gọn trong kinh tế mà mở rộng sang các lĩnh vực khác như chính trị, quốc phòng, an ninh, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường và du lịch. Đây là sự mở rộng có tính hệ thống, phù hợp với yêu cầu phát triển toàn diện và bền vững.
Thứ tư, gắn kết chặt chẽ hội nhập với bảo vệ lợi ích quốc gia. Một điểm nhấn của nghị quyết là yêu cầu đảm bảo hội nhập phải luôn song hành với giữ gìn lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc. Hội nhập không được tách rời khỏi việc xây dựng nội lực vững mạnh, tranh thủ tốt các mối quan hệ quốc tế để tăng cường tin cậy, thúc đẩy phát triển và bảo vệ chủ quyền, độc lập, thông qua giải pháp hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Thứ năm, nâng cao năng lực thực thi và hoàn thiện thể chế. Nghị quyết xác định rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực thực thi các cam kết, hiệp định quốc tế đi đôi với việc hoàn thiện hệ thống thể chế trong nước. Điều này nhằm đảm bảo Việt Nam không chỉ hội nhập sâu mà còn hội nhập một cách hiệu quả, góp phần giữ vững môi trường ổn định, phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn mới.
2. Tác động của Nghị quyết 59-NQ/TW đối với Bộ Công Thương
Bộ Công Thương là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại, bao gồm các ngành và lĩnh vực: Điện, than, dầu khí, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, công nghiệp cơ khí, công nghiệp luyện kim, công nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản, công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp môi trường, công nghiệp công nghệ cao (không bao gồm công nghiệp công nghệ thông tin và công nghiệp công nghệ số); cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khuyến công; thương mại trong nước; xuất nhập khẩu, thương mại biên giới; dịch vụ logistics; phát triển thị trường ngoài nước; quản lý thị trường; xúc tiến thương mại; thương mại điện tử; dịch vụ thương mại; hội nhập kinh tế quốc tế; cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; phòng vệ thương mại; các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế, với quan điểm đẩy mạnh hội nhập gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có tác động tích cực và sâu sắc đến ngành công thương. Nghị quyết này thúc đẩy ngành công thương nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế số, xanh và tuần hoàn, đồng thời tăng cường hội nhập quốc tế để phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết 59-NQ/TW tác động đến ngành công thương theo các hướng sau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh:
+ Thúc đẩy đổi mới công nghệ và sáng tạo: Nghị quyết nhấn mạnh vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp công thương đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, và hiệu quả sản xuất.
+ Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Hội nhập quốc tế đòi hỏi nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và khả năng thích ứng cao. Nghị quyết thúc đẩy các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong bối cảnh hội nhập.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế: Nghị quyết khuyến khích các doanh nghiệp công thương mở rộng hợp tác với các đối tác nước ngoài, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, học hỏi kinh nghiệm quản lý, công nghệ và tiếp cận thị trường mới.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công thương:
+ Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn: Nghị quyết định hướng phát triển ngành công thương theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và tuần hoàn. Điều này tạo động lực cho các doanh nghiệp công thương đầu tư vào các lĩnh vực này, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tài nguyên.
+ Tái cơ cấu ngành công thương theo hướng hiện đại: Nghị quyết thúc đẩy các doanh nghiệp công thương tái cơ cấu theo hướng hiện đại, tinh gọn, hiệu quả, tập trung vào các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh.
+ Xây dựng thương hiệu quốc gia: Nghị quyết khuyến khích việc xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ công thương Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Thúc đẩy xuất nhập khẩu: Nghị quyết thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu, đa dạng hóa thị trường, tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
+ Thu hút đầu tư nước ngoài: Nghị quyết khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành công thương, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo.
+ Nâng cao vai trò của các hiệp hội, ngành hàng: Nghị quyết đề cao vai trò của các hiệp hội, ngành hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp công thương hội nhập quốc tế, tham gia vào các hoạt động xúc tiến thương mại, giải quyết các vấn đề liên quan đến hội nhập.
3. Nhiệm vụ của Đảng viên, viên chức của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương sau khi nghiên cứu Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị
- Tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng;
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới tư duy, nhận thức và hành động trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, tham vấn chính sách về hội nhập Quốc tế trong tình hình mới;
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ hội nhập Quốc tế;
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thực thi và tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) và các hiệp định thương mại song phương, đa phương mà Việt Nam là thành viên để Việt Nam hội nhập sâu rộng vào chuỗi cung ứng quốc gia và quốc tế, nâng cao vị thế của tỉnh trong các chuỗi giá trị và trong đánh giá của các đối tác; xây dựng và bảo vệ các thương hiệu đạt tầm quốc tế; chủ động thực thi các quy tắc và luật lệ chung về thương mại quốc tế.
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thu hút và trọng dụng nhân tài, bao gồm các chuyên gia, nhà khoa học và trí thức quốc tế, người Việt Nam./.