Bước sang năm 2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, gây gián đoạn lưu chuyển thương mại, làm gián đoạn một số hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh phải tạm ngừng hoạt động, giảm quy mô sản xuất. Tại Yên Bái, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có nhiều giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo điều hành công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, tích cực triển khai các giải pháp thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, kết luận của Tỉnh ủy và Nghị quyết của HĐND, UBND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; cùng với sự nỗ lực, cố gắng khắc phục các khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp. Ngành Công Thương đã chủ động nắm bắt tình hình, tham mưu với tỉnh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó hoạt động của ngành trong những tháng đầu năm 2022 tiếp tục duy trì ổn định và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Theo Sở Công Thương tỉnh Yên Bái, chỉ số sản xuất công nghiệp (SXCN) 4 tháng đầu năm 2022 của tỉnh Yên Bái tăng 9,17% so với cùng kỳ năm 2021. Cụ thể, sản xuất trang phục tăng 43,39%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 32,96%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 23,33%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 62,78%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 64,15%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng hơi nước và điều hòa không khí tăng 31,51%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải; tái chế phế liệu tăng 4,84%...
Một số sản phẩm chính có chỉ số sản xuất tăng cao như: đá xây dựng khác tăng 31,5%; tinh bột sắn tăng 44,43%; quần áo các loại tăng 55,18%; gỗ dán tăng 24,11%; gỗ lạng tăng 39,82%; sơn và véc - ni tăng 23,33%; dược phẩm khác chưa được phân vào đâu tăng 62,78%; các loại đá lát, đá lát lề đường tăng 19,6%; các sản phẩm bằng đá hoặc bằng các chất liệu khoáng khác chưa được phân vào đâu tăng 18,61%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại tăng 36,87%; điện sản xuất tăng 38,37%; điện thương phẩm tăng 3,92%...
Ngoài các ngành có mức tăng trên thì một số ngành giảm so với cùng kỳ như: khai thác quặng kim loại giảm 30,37%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 12,91%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 46,17%; sản xuất kim loại giảm 38,85%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 12,62%; sửa chữa, bảo dưỡng, lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 9,23%...
Trong bối cảnh khó khăn chung do ảnh hưởng của dịch Covid-19, với sự nỗ lực của các cấp, ngành, địa phương, doanh nghiệp và sự ủng hộ của nhân dân, ngành công nghiệp tỉnh Yên Bái đã có bước phát triển quan trọng, chỉ số SXCN duy trì mức tăng trưởng khá. Trong đó, SXCN đã từng bước phát triển gắn với tiềm năng thế mạnh địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực và mở ra định hướng, hình thành một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai khoáng.
Đồng thời, SXCN dần trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh có giá trị gia tăng cao, quy mô sản xuất lớn, chất lượng ổn định, tạo được thương hiệu trên thị trường trong, ngoài nước... và đã trở thành động lực, giữ vai trò chủ chốt phát triển ngành công nghiệp của tỉnh; tạo việc làm ổn định cho lao động địa phương; ý thức tác phong lao động công nghiệp từng bước được hình thành và phát triển.
Một số sản phẩm chủ lực, thế mạnh của Yên Bái có thể kể đến: sản phẩm tinh bột sắn đã đạt sản lượng 20.000 tấn/năm; 65 nhà máy sản xuất chè với sản lượng đạt 30.000 tấn chè khô xuất khẩu/năm. Ngành sản xuất chế biến gỗ có trên 400 cơ sở, sản lượng gỗ chế biến các loại hàng năm đạt trên 200.000 m3. Nhiều loại khoáng sản đã được khai thác và chế biến hiệu quả cao, công nghệ hiện đại như: xi măng lò quay đạt 1,8 triệu tấn/năm; khai thác và chế biến đá vôi trắng đạt sản lượng 1,5 triệu tấn/năm; khai thác một số khoáng sản khác phục vụ cho chế biến trong và ngoài tỉnh như quặng sắt, chì kẽm, graphite, đất hiếm...
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế là SXCN chưa có sự bứt phá mạnh mẽ, cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm và chưa rõ nét; công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển; chưa có nhiều sản phẩm chế biến sâu phục vụ xuất khẩu.
Các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phần lớn có quy mô nhỏ và vừa; dây chuyền công nghệ sản xuất chậm được đổi mới, chất lượng sản phẩm còn thấp, mẫu mã đơn giản; hạ tầng giao thông còn bất cập, thiếu đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu thợ tay nghề cao; cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực đầu tư vào phát triển công nghiệp chưa phát huy được hiệu quả; việc huy động, bố trí các nguồn lực phát triển hạ tầng khu, cụm công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến thiếu mặt bằng sạch để thu hút đầu tư; chưa tạo ra nhiều chuỗi liên kết sản xuất, gia tăng giá trị các sản phẩm công nghiệp của tỉnh.
Để khắc phục những hạn chế trên, ngành Công Thương tỉnh tiếp tục triển khai thực hiệu các mục tiêu và giải pháp phát triển công nghiệp theo hướng phát triển xanh, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh.
Trong năm 2022, Yên Bái phấn đấu chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9%, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 15.500 tỷ đồng.
Để đạt được mục tiêu trên, tỉnh Yên Bái tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 29-NQ/TU ngày 24/02/2021 của Tỉnh ủy và các đề án, chính sách của HĐND, UBND tỉnh về cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả, thân thiện với môi trường, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. Tập trung vào các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ lực, có lợi thế cạnh tranh, như: Phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; chế biến sâu khoáng sản, sản xuất và xuất khẩu vật liệu xây dựng cao cấp, như: đá ốp lát, vật liệu composite, ống nhụa, tấm nhựa, sơn công nghiệp, sứ cách điện cao cấp; công nghiệp chế biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp gắn với vùng nguyên liệu, trọng tâm là chế biến gỗ rừng trồng công nghệ cao (ván ép, gỗ MDF, viên nén năng lượng..), từng bước đưa Yên Bái trở thành trung tâm chế biến lâm sản công nghệ cao của khu vực miền núi phía Bắc.
Tăng cường thu hút, hỗ trợ các nhà đầu tư, doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành Trung ương để sớm hoàn thiện hồ sơ, thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ cho phép bổ sung các khu công nghiệp trên địa bàn các huyện Trấn Yên và Văn Yên, tích hợp vào quy hoạch tỉnh. Hoàn thành quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp Phú Thịnh 1, Phú Thịnh 2, huyện Yên Bình; cụm công nghiệp Hợp Minh, thành phố Yên Bái; mở rộng cụm công nghiệp Yên Thế, huyện Lục Yên. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng khu, cụm công nghiệp, trọng tâm là Khu công nghiệp Âu Lâu, Khu công nghiệp Minh Quân, Cụm công nghiệp Minh Quân.
Đồng thời, ưu tiên thu hút đầu tư có chọn lọc, lựa chọn những doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; không cấp phép mới, đồng thời, kiên quyết thu hồi quyết định chủ trương đầu tư, giấy phép hoạt động đối với các dự án sản xuất công nghiệp có nguy cơ cao hoặc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân./.
Trần Thị Thúy Hằng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại