Logistics đã trở thành một ngành dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Với bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu mua bán và trao đổi hàng hóa thực sự bùng nổ.Thị trường thế giới mở rộng, giao thương giữa các quốc gia và khu vực trên toàn cầu gia tăng mạnh mẽ, từ đó nhu cầu về vận tải, kho bãi và các dịch vụ phụ trợ tăng lên nhanh chóng. Toàn cầu hóa nền kinh tế là xu thế tất yếu, do đó logistics có vai trò ngày càng tăng và trở thành công cụ kết nối các hoạt động sản xuất, kinh doanh và giúp các hoạt động này đạt được hiệu quả tối ưu.
Sử dụng hệ thống logistics đã tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất hàng hóa từ khâu đầu vào của nguyên vật liệu đến khâu phân phối sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng. Hệ thống logistics cho phép hàng hóa đến các thị trường mới trong thời gian và địa điểm xác định. Logistics cũng thúc đẩy kinh doanh quốc tế do doanh nghiệp có thể kinh doanh vượt qua ngoài biên giới địa lý nhờ vào sự hỗ trợ của hệ thống logistics.
Logistics là một công cụ, phương tiện kết nối các lĩnh vực khác nhau khi thị trường toàn cầu phát triển với những đổi mới về công nghệ, mở cửa thị trường tại các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, logistics giúp giải quyết những vấn đề liên quan đến nguồn nguyên liệu cung ứng, số lượng và thời gian hiệu quả để bổ sung nguyên liệu; phương tiện và hành trình vận tải; kho bãi…Logistics giúp giảm tối đa chi phí và duy trì hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Những năm trở lại đây, sự phát triển của logistics điện tử sẽ dẫn đến những thay đổi lớn trong dịch vụ logistics, giúp giảm chi phí trong quá trình lưu thông hàng hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ.
Kinh nghiệm của một số nước trong phát triển logistics:
1. Trung Quốc
Hệ thống logistics của Trung Quốc dựa trên nền tảng kết nối các tỉnh với diện tích địa lý lớn nhằm liên kết hạ tầng giao thông nội địa và liên kết các lĩnh vực kinh tế của quốc gia.
Logistics tại Trung Quốc được hình thành trên cơ sở áp dụng hệ thống điện tử thông minh, trong đó hai ứng dụng tiêu biểu nhất chính là hệ thống Cảng tự động (Automated Sea Port) và hệ thống Bắc Đẩu (Beidou Navigation System - BDS) được áp dụng ở Thanh Đảo và Thượng Hải. Với tính năng tích hợp, an toàn và không cần nhân lực lớn, hệ thống Cảng tự động này góp phần đẩy nhanh hiệu suất vận hành và xử lý hàng hóa tại cảng. Còn hệ thống BDS đồng bộ toàn bộ hệ thống dữ liệu di chuyển của các phương tiện, nhằm tối ưu hóa di chuyển và quy hoạch quốc gia, hệ thống BDS của Trung Quốc được coi như một phiên bản cao cấp của GPS.
Trung Quốc phát triển chuỗi lạnh từ những năm 1980. Phát triển chuỗi lạnh đã được kế thừa và học tập dựa trên các nền tảng khoa học - kĩ thuật từ các nước phát triển giúp tích trữ, bảo quản và xuất khẩu khối lượng nông sản rất lớn. Trên cơ sở đó, Trung Quốc đã tự cải tiến chuỗi lạnh phù hợp với nhu cầu và điều kiện kinh doanh trong nước và có khả năng đáp ứng cho các doanh nghiệp lớn trên thế giới, tuy nhiên vẫn chưa thực sự đáp ứng đủ nhu cầu trong nước.
Tập đoàn Logistics Trung Quốc là sự hợp nhất của Tập đoàn Vật liệu đường sắt Trung Quốc, Tập đoàn vận chuyển và lưu trữ vật liệu quốc gia Trung Quốc, Công ty Vận chuyển quốc tế Huamao Chi nhánh Thâm Quyến, Tổng công ty Logistics Trung Quốc và Tổng công ty Bao bì quốc gia Trung Quốc. Tập đoàn logistics Trung Quốc có mặt trên 30 tỉnh thành của Trung Quốc, ngoài ra còn mở rộng hoạt động trên toàn thế giới.
2. Singapore
Singapore là trung tâm vận chuyển hàng hóa với mức độ lưu chuyển rất lớn trên thế giới, kết nối gần 600 cảng tại 120 quốc gia. Singapore đưa ra chiến lược, quy hoạch và các chính sách phát triển ngành công nghiệp cảng theo hướng xanh và thông minh, giúp Singapore trở thành trung tâm trong vận tải biển quốc tế. Singapor phát triển cảng tự động nhằm xử lý hàng hóa, và giúp hoạt động vận tải biển nhanh và hiệu quả hơn trong khi nguồn nhân lực còn hạn chế.
Hệ thống siêu cảng Tuas của Singapore đã hoàn tất xây dựng với diện tích 414 ha, gồm 21 cầu cảng nước sâu, công suất khai thác vận hành rất lớn và hệ thống cảng của Singapore trở thành cảng tự động lớn nhất thế giới. Ngoài ra, Singapore còn được kết nối bởi tuyến đường sắt xuyên quốc gia Côn Minh - Singapore giúp kết nối giao thông giữa Singapore với Malaysia và các quốc gia Đông Nam Á.
Singapore còn đưa ra các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vận tải biển như việc trang bị tại các hệ thống cảng các dịch vụ như ngân hàng, bốc dỡ hàng hóa, lưu kho, lưu bãi, đảm bảo nguồn nhiên liệu vận hành. Hệ thống dịch vụ tiện lợi giúp Singapore trở thành trung tâm vận tải uy tín trên thế giới và được nhiều doanh nghiệp lựa chọn.
Singapore phát triển chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để đủ tiêu chuẩn cung cấp các dịch vụ quản lý logistics cho khách hàng trên thế giới mà không cần nộp thuế. Doanh nghiệp không cần nộp thuế khi doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, hay khi cung cấp hàng hóa cho các đối tác trong nước cũng không phải nộp thuế. Hàng hóa tái xuất cũng không phải nộp thuế tại Singapore. Do vậy nhiều doanh nghiệp đã chọn Singapore làm trung tâm phân phối sản phẩm.
3. Ấn Độ
Ấn Độ có rất nhiều tiềm năng trong phát triển logistics với 12 cảng chính. Ấn Độ đã đưa ra nhiều chiến lược, chính sách tạo ra các bước đột phá trong phát triển logistics. Ấn độ đã đề ra chính sách miễn thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đường thủy và cảng nội địa như bảo trì, khai thác và phát triển các hoạt động vận tải, logistics. Bên cạnh đấy, cho phép tư nhân mua nhượng quyền quản lý tại các cảng do Nhà nước sở hữu với thời hạn tối đa là 30 năm với các quy định cụ thể khác. Các doanh nghiệp 100% vốn FDI đầu tư kinh doanh lĩnh vực xây dựng và bảo trì cảng và bến cảng ở Ấn Độ sẽ được đầu tư theo lộ trình quy định.
Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ở Ấn Độ nhằm kết nối và phát triển các hình thức vận tải đa phương thức cắt giảm chi phí và thời gian vận chuyển. Thay đổi trong hệ thống cơ sở hạ tầng logistics sẽ giúp thay đổi hệ thống hạ tầng giao thông quốc gia, tăng lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh và thu hút FDI.
Ấn Độ có đặc điểm địa lý phân cách nên không thuận lợi trong vận chuyển hàng hóa do vậy có mạng lưới nhà kho và cảng cạn (ICD) dày đặc, từ đó giúp các hệ thống hạ tầng logistics liên quan phát triển. Ngoài ra, Ấn Độ còn có hệ thống đường bộ như đường sắt, đường ô tô dày đặc.Tổng chiều dài quốc lộ hơn 65 nghìn km, tổng chiều dài các xa lộ khoảng 130 nghìn km là cơ sở cho việc phát triển mạng lưới giao thông tại Ấn Độ.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
- Cần xây dựng khung pháp lý đồng bộ, các chính sách thúc đẩy phát triển hệ thống logitics liên quan đến các ngành từ sản xuất, thương mại đến giao thông. Từ đó gắn kết và phối hợp hoạt động quản lý giữa các ngành để tổ chức hiệu quả các chương trình trọng điểm tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ logistics.
- Hình thành và xây dựng các trung tâm logistics với năng lực cao trong vận tải hàng hải, hàng không và đường bộ.
- Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực logistics. Đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng logistics quan trọng, quy mô lớn, hệ thống đường cao tốc tạo thuận lợi trong vận chuyển hàng hóa.
- Phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhằm tự động hóa trong hoạt động logistics, tạo ra hiệu quả và mang lại giá trị gia tăng cao.
- Chú trọng phát triển dịch vụ logistics thông qua phát triển các kho vận, dịch vụ hậu cần và các thiết bị hậu cần.
- Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, có kiến thức, kỹ năng giúp cho việc quản lý, vận hành các hệ thống một cách đồng bộ, hiệu quả nhất.
Như vậy, Việt Nam cần chú trọng đến việc phát triển logistics, cần hình thành các cơ quan chuyên trách, hội đồng tư vấn từ các bộ, ngành liên quan và đưa ra kế hoạch hành động mang tính chiến lược và dài hạn. Hiện nay kết cấu hạ tầng logistics còn kém phát triển, chậm trễ trong phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động logistics. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực còn yếu, trình độ, kỹ năng còn thấp, thiếu hụt đội ngũ lao động chuyên nghiệp về lĩnh vực logistics. Đây là những rào cản trong quá trình phát triển logistics ở Việt Nam. Ngoài ra, một số chính sách liên quan đến thủ tục hải quan, công tác quản lý còn gây trở ngại đến hoạt động logistics.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, và từ thực tiễn tại Việt Nam cho thấy trước tiên cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ngành logistics. Cần đổi mới trong đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, hạ tầng thương mại, hạ tầng công nghệ thông tin.
Tiếp theo là việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ logistics cả ở cấp Trung ương và địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến logistics.
Ngành logistics của Việt Nam trong tương lai sẽ có nhiều tiềm năng để phát triển và sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung. Việt Nam cần nhìn nhận thực trạng, các vấn đề thực tiễn, học hỏi kinh nghiệm từ các nước, tìm ra giải pháp để logitics ngày càng phát triển mạnh mẽ phục vụ hoạt động kinh doanh trong nước và xuất khẩu./.
TS. Trần Thị Thu Hiền
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT