Phần 1: Một số nét tổng quan về chợ
Chợ là một trong những loại hình kết cấu hạ tầng thương mại truyền thống, được phát triển sớm nhất như là sự “khởi đầu” của quá trình phát triển các loại hình tổ chức mua bán hàng hoá trong xã hội.
Chợ đã ra đời và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Chợ đã tồn tại như một loại hình tổ chức thương mại phổ biến trong các xã hội nông nghiệp do sự phù hợp của nó với trình độ sản xuất và tiêu dùng xã hội. Trong khi đó, các loại hình tổ chức thương mại khác chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp.
Đối với nước ta hiện nay, với tỷ trọng 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% dân số có thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, mạng lưới chợ vẫn là nơi trao đổi, mua bán hàng hoá của đại bộ phận dân cư.
Mặc dù trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhiều loại hình tổ chức thương mại hiện đại được phát triển, nhưng chợ vẫn tồn tại và có vị trí độc lập không thể thay thế hoàn toàn trong các loại hình tổ chức thương mại cung cấp dịch vụ phân phối hàng hoá cho các tầng lớp dân cư.
Trong các nền kinh tế đang phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế, sự tồn tại độc lập của chợ là do có sự khác biệt giữa các sản phẩm nông nghiệp do nhiều người nông dân sản xuất ra với đòi hỏi của người tiêu dùng trong khi mỗi loại hình tổ chức thương mại thường phù hợp với hoạt động kinh doanh hàng nông sản ở một mức chất lượng, giá cả và sự phong phú về chủng loại... nhất định; Sự khác biệt về chi phí gia nhập vào hệ thống kinh doanh hàng nông sản của các đối tượng khác nhau. Thông thường, khả năng tham gia của các hộ nông dân, người buôn bán nhỏ phù hợp với việc gia nhập vào các chợ hơn là hệ thống siêu thị, cửa hàng; Sự khác biệt về trình độ quản lý và yêu cầu tổ chức kinh doanh của các loại hình thương mại.
Chợ có vị trí độc lập trong các loại hình tổ chức thương mại là do các sản phẩm nông nghiệp vẫn được sản xuất ở qui mô hộ gia đình, hay là sản phẩm làm vườn, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp tươi, sống vẫn được ưa chuộng ở các nước phát triển.Sự khác biệt về chủng loại sản phẩm, chất lượng, giá cả và tập quán tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp vẫn tồn tại ở các vùng đất, vùng cư dân khác nhau.
Nhìn chung, quá trình phát triển kinh tế nói chung và quá trình đô thị hoá nói riêng đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của chợ. Xã hội càng phát triển thì mức độ phổ biến của loại hình chợ truyền thống càng thu hẹp, nhưng không mất đi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của loại hình này,mà ngược lại đòi hỏi phải hiện đại hoá mạng lưới chợ truyền thống để phù hợp với quá trình phát triển các hệ thống thị trường hàng hoá.Chính sự tồn tại độc lập của chợ đã mang lại cho chợ vị trí không thể thay thế trong quá trình phát triển của các loại hình tổ chức thương mại để đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá của dân cư.
1. Khái niệm về chợ
Theo cách hiểu thông thường và được sử dụng trong từ điển tiếng Việt: “Chợ là nơi nhiều người tụ họp để mua bán trong những ngày, buổi nhất định”. Khái niệm này cũng gần với khái niệm thị trường trong Từ điển Kinh tế học hiện đại: “Thị trường là bất kỳ khung cảnh nào đó diễn ra việc mua bán các loại hàng hoá và dịch vụ”. Hai khái niệm này đều bao hàm “nơi” hay “khung cảnh nào đó” và ở đó diễn ra việc “mua, bán”. Chính vì sự tương đồng giữa hai khái niệm này, nên chợ và thị trường cũng được hiểu đồng nhất với nhau, ngay cả ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì “chợ” và “thị trường” đều được gọi chung là “market”. Như vậy, có thể nói rằng, chợ chính là thị trường, chợ nằm trong hệ thống thị trường và khái niệm chợ nằm trong phạm vi của khái niệm thị trường. Trong hệ thống thị trường hiện nay, chợ truyền thống được xếp vào loại thị trường hàng hoá giao ngay, ở đó người bán và người mua đàm phán, mặc cả trực tiếp, người mua tiếp cận trực tiếp với hàng hoá, thoả thuận xong là giao nhận hàng và thanh toán, không sử dụng công nghệ hoặc thiết bị tân tiến nào cả, khối lượng giao dịch nhỏ và phương thức thanh toán duy nhất là trả bằng tiền mặt. Ưu thế nổi bật của hình thức này là việc buôn bán được thoả thuận trực tiếp, công khai, giao nhận hàng và thanh toán tiền diễn ra đồng thời, ít có rủi ro trong mua bán như lừa đảo. Tuy nhiên hạn chế nhất của hình thức này là giá cả phụ thuộc vào cung- cầu trực tiếp tại nơi giao dịch nên thiếu tính ổn định, tạo chênh lệch giá khá lớn giữa các thị trường, người mua và người bán đều có thể gặp rủi ro cao do biến động thất thường của thị trường, người mua thường có lợi hơn người bán vì người bán thiếu thông tin, không có đủ kiến thức về thị trường. Do vậy, để quản lý tốt sự phát triển của mạng lưới chợ cần hướng tới khắc phục những hạn chế của chợ truyền thống.
Khái niệm chợ trên đây bao hàm những cấu thành cơ bản nhất của chợ và thị trường:
1) “nơi” - xác định không gian thị trường cụ thể;
2) “ngày, buổi nhất định” - xác định thời gian cụ thể;
3) “nhiều người tụ họp để mua bán” - xác định số lượng người tham gia thị trường;
4) “mua và bán” - xác định quan hệ trao đổi.
Trong thực tế, khái niệm chợ còn được phát triển theo hai cách hiểu chủ yếu: Một là, xuất phát từ khái niệm này có thể đưa ra nhiều khái niệm hẹp hơn trên cơ sở cụ thể hoá những cấu thành cơ bản của chợ. Chẳng hạn, chợ phiên, chợ mùa vụ là chợ mà khoảng cách giữa các lần tụ họp của nhiều người để mua bán có khoảng cách nhất định về thời gian. Hay chợ nông sản là chợ mà hàng hoá mua bán chủ yếu là những mặt hàng nông sản, thực phẩm…; Hai là, theo cách nhìn nhận chợ là một loại hình tổ chức để thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá, hay để thực hiện chức năng thương mại thì chợ cũng giống như các loại hình tổ chức thương mại khác, như trung tâm mua sắm, trung tâm bán buôn… Do đó, chợ cũng có thể được hiểu là một loại hình tổ chức thương mại tại một địa điểm nhất định, đáp ứng các nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư.
Cả hai cách hiểu đối với chợ như trên đều có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý sự phát triển chợ nói chung. Cách hiểu về chợ là thị trường sẽ cho thấy rõ về các chức năng, điều kiện thị trường, các phân đoạn thị trường và đặc biệt là các mối quan hệ thị trường của chợ. Theo cách hiểu chợ là một loại hình tổ chức thương mại sẽ cho phép thấy rõ những điểm khác biệt giữa chợ với các loại hình tổ chức thương mại khác, đặc biệt là xu hướng phát triển của chợ trong quá trình phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại của nền kinh tế.
2. Phân loại chợ và đặc điểm các loại hình chợ
Việc phân loại chợ thường được dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau:
+ Căn cứ vào “nơi” họp chợ có thể có các tiêu thức phân loại: Phân loại chợ theo địa giới hành chính (chợ xã, chợ huyện,…); Phân loại chợ theo vùng lãnh thổ (chợ miền núi, chợ đồng bằng,..);
+ Căn cứ vào thời gian họp chợ có các tiêu thức phân loại: Theo thời gian trong ngày (chợ sáng, chợ chiều, chợ đêm); Theo khoảng cách thời gian giữa các lần họp chợ (chợ hàng ngày, chợ phiên, chợ mùa vụ);…
+ Căn cứ vào người tham gia họp chợ có các tiêu thức phân loại: Theo qui mô số người tham gia họp chợ hay số người kinh doanh thường xuyên (cố định) tại chợ;
+ Căn cứ vào hoạt động mua bán hàng hoá có các tiêu thức phân loại rất đa dạng: Theo loại hàng hoá chủ yếu được lưu thông qua chợ (hàng nông sản, hàng công nghiệp,…); Theo qui mô hàng hoá và phương thức được giao dịch (chợ bán buôn, chợ bán lẻ); Theo phạm vi lưu thông của hàng hoá (chợ vùng, liên vùng, chợ xã, chợ liên xã); Theo điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện kinh doanh hàng hoá (chợ kiên cố, chợ bán kiên cố,…)
Để quy hoạch phát triển, chợ có thể phân loại như sau:
- Theo phạm vi,qui mô và tính chất hoạt động kinh doanh bao gồm: Chợ dân sinh; Chợ đầu mối bán buôn nông sản; Chợ bán buôn, bán lẻ tổng hợp ở các trung tâm kinh tế và thương mại của tỉnh, thành phố; Chợ biên giới. Các loại chợ này lại có thể tiếp tục được phân loại như sau: Chợ dân sinh ở khu vực thành thị, chợ dân sinh ở khu vực nông thôn; Chợ đầu mối theo các mặt hàng nông sản chủ yếu được bán buôn qua chợ, như chợ đầu mối nông sản chuyên ngành (rau quả, thuỷ sản, lúa gạo) và chợ nông sản tổng hợp; Chợ bán buôn, bán lẻ tổng hợp hạng I, 2, 3; Chợ xã biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong Khu kinh tế cửa khẩu.
- Theo qui mô số điểm kinh doanh cố định (Nghị định 02 CP), các chợ hạng I có trên 400 số điểm kinh doanh cố định trên chợ, chợ hạng II có từ 200 - đến dưới 400 điểm kinh doanh cố định, chợ hạng III có dưới 200 điểm kinh doanh cố định.
- Theo trình độ cơ sở vật chất: Chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ lều lán tạm.
So với các kết cấu hạ tầng thương mại cùng loại, hệ thống chợ có những đặc trưng hay những điểm khác biệt như:
- Địa điểm họp chợ phải đảm bảo thuận tiện cho sự gặp gỡ của số đông người mua và người bán.
Đối với các chợ ở khu vực nông thôn, đặc trưng này khá rõ nét. Bởi đa số những người đến chợ là những người sản xuất nhỏ, vừa với tư cách người bán, vừa với tư cách người mua. Nghĩa là, vị thế của người mua và người bán trong việc xác định địa điểm để họp chợ là ngang nhau. Mặt khác, qui mô trao đổi, mua bán của những người này thường nhỏ, lẻ. Do đó, điều kiện đảm bảo cho sự gặp gỡ giữa cung và cầu (cả về khối lượng và cơ cấu) trên chợ là có sự tham gia đông đảo của người mua và người bán.
Đối với các chợ ở khu vực đô thị hay đối với các chợ đầu mối, do tỷ lệ các hộ buôn bán chuyên nghiệp tăng lên, nên tính thuận tiện của địa điểm họp chợ đối với người mua đòi hỏi cao hơn so với người bán. Tuy nhiên, địa điểm họp chợ vẫn cần đảm bảo tính thuận tiện với số đông người buôn bán tương đối độc lập với nhau về tổ chức nguồn hàng và bán hàng cũng như phù hợp với dòng lưu thông hàng hoá.
- Các sản phẩm trao đổi, mua bán tại các chợ thường không có sự thống nhất về phẩm cấp, qui cách sản phẩm, cách thức và trình độ chế biến, cũng như giá cả giữa các sản phẩm cùng qui cách, phẩm chất.
Thành phần người bán hàng tại các chợ rất đa dạng bao gồm người sản xuất (nông dân, thợ thủ công) và người thu gom, thương lái, người bán buôn, người bán lẻ… Do đó, khó có sự thống nhất giữa những người bán về qui cách, giá cả sản phẩm. Hơn nữa, tính cạnh tranh cao giữa những người bán trên chợ cũng làm cho giá bán thường xuyên thay đổi. Những đặc điểm này cũng là yếu tố đòi hỏi việc tổ chức quản lý chợ cần phải hướng đến khắc phục những hạn chế về chất lượng, phân loại, đóng gói... cũng như hình thành giá cả hàng hoá được mua bán qua mạng lưới chợ.
- Thời gian họp chợ trong ngày thường không kéo dài, có tính thời điểm cao, nhất là với các chợ nông thôn, chợ vùng sâu, vùng xa.
Đối với các chợ ở khu vực nông thôn, thời gian họp chợ thường bắt đầu từ sáng sớm đến nửa buổi thì số lượng người mua, người bán (là nông dân hay người sản xuất nhỏ, kể cả người buôn chuyến) giảm dần và thường chỉ còn lại một số hộ buôn bán thường xuyên, cố định trên chợ. Đối với những chợ ở khu vực có mật độ dân cư thưa (vùng sâu, vùng xa) hiện nay vẫn được họp theo phiên chợ, hoặc thời gian họp chợ chỉ kéo dài vài ba giờ hay một buổi trong ngày.
Đối với các chợ dân sinh ở khu vực đô thị, thời gian họp chợ đã diễn ra thường xuyên và kéo dài trong cả ngày. Tuy nhiên, thời điểm có đông người mua và người bán nhất thường vào buổi sớm hay buổi chiều do phần lớn người tiêu dùng thường tập trung mua hàng vào những thời điểm trước hoặc sau thời gian làm việc.
Đối với các chợ đầu mối bán buôn, thời gian hoạt động của chợ cũng vẫn có tính tập trung cao vào những thời điểm trong ngày. Thời điểm này thường phải phù hợp với điều kiện tập kết của các nguồn hàng, hay phù hợp với yêu cầu phát luồng đến nơi tiêu thụ khác.
- Qui mô đầu tư và khả năng sử dụng, khai thác những cơ sở vật chất - kỹ thuật tại các chợ có liên quan trực tiếp với số lượng người tham gia bán hàng, nhất là những người bán hàng thường xuyên, cố định tại chợ.
Qui mô đầu tư và khả năng sử dụng cơ sở vật chất chợ thường dựa trên số lượng người bán hàng hay số điểm kinh doanh cố định, thường xuyên trên chợ. Theo Nghị định 02 của Chính phủ về tổ chức quản lý và kinh doanh chợ, tương ứng với qui mô số hộ kinh doanh cố định tại chợ, yêu cầu về đầu tư từng loại chợ được xác định như sau:
1) Chợ hạng I có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại theo quy hoạch, có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ (trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác);
2) Chợ hạng II có trên 200 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch, có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ (trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường);
3) Chợ hạng III có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố, chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã, phường và địa bàn phụ cận.
- Hoạt động đầu tư phát triển hệ thống chợ thường xuất phát từ những mục tiêu kinh tế - xã hội hơn là mục tiêu lợi nhuận.
Thông thường, đối với các chợ, tỷ lệ người sản xuất và buôn bán nhỏ tham gia bán hàng thường chiếm tỷ trọng lớn. Các đối tượng này chủ yếu bán sản phẩm do họ sản xuất ra hay tìm kiếm việc làm và tăng thêm thu nhập. Đặc biệt ở nông thôn, chợ còn là một trong những kết cấu hạ tầng quan trọng giúp nông dân tiêu thụ nông sản với giá thị trường, nâng cao thu nhập cho họ, đồng thời giúp họ tham gia vào hệ thống thị trường và vì vậy có thể thực hiện xoá đói, giảm nghèo và phát triển bền vững. Đây là một trong những vấn đề được Nhà nước hết sức quan tâm vì các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc đầu tư xây dựng chợ thường được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ cả về thủ tục đầu tư, cũng như hỗ trợ vốn đầu tư. Hoạt động đầu tư xây dựng chợ cũng được xem như thuộc chức năng cung cấp hàng hoá công của Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, các loại hình tổ chức thương mại khác thường được đầu tư bằng nguồn vốn tư nhân để thực hiện các hoạt động thương mại vì mục tiêu lợi nhuận là chính.
Nhìn chung, những đặc trưng cơ bản trên đây của chợ không chỉ ảnh hưởng đến kết quả đầu tư, mà còn có ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và cách xác định hiệu quả đầu tư xây dựng chợ. Nếu quyết định đầu tư chợ tại một địa điểm nào đó không được xuất phát từ đặc trưng vị trí của chợ không chỉ thuận lợi cho nhiều người mua, mà còn cho cả nhiều người bán, thì kết quả đầu tư có thể sẽ không được đưa vào sử dụng và đầu tư chợ sẽ trở thành không có hiệu quả. Những đặc trưng liên quan đến tính chất sản phẩm, thời gian họp chợ sẽ qui định qui mô đầu tư, các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật, cách thức khai thác cơ sở vật chất của chợ... Những đặc trưng này của chợ cần được chú trọng trong công tác quản lý chợ để đảm bảo phát huy năng lực phục vụ hoạt động kinh doanh tại các chợ và hiệu quả đầu tư xây dựng chợ.
Bảng 01 : Phân loại chợ
|
Chợ
|
Các tiêu chí để xác định loại chợ
|
|
Cấp quản lý tương ứng
|
Quy mô số điểm kinh doanh (3m2/ĐKD)
|
Cấp công trình
|
Số tầng nhà
|
|
Hạng 1
|
Tỉnh, Thành Phố
|
> 400
|
Cấp 2-1
|
1 - 4
|
|
Hạng 2
|
Quận, huyện,
thị trấn
|
≥ 200
|
Cấp 3-2
|
1 - 3
|
|
Hạng 3
|
Phường, xã
|
< 200
|
Cấp 4-3
|
1 - 2
|
Bảng 02 : Các loại hình chợ
|
Loại hình
|
Tiêu chí phân loại
|
|
Chợ chuyên doanh
|
Là chợ kinh doanh chuyên biệt một ngành hàng hoặc một số ngành hàng có đặc thù và tính chất riêng.
|
|
Chợ tổng hợp
|
Là chợ kinh doanh nhiều ngành hàng.
|
|
Chợ đầu mối
|
Là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng hoá lín từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
|
|
Chợ dân sinh
|
Là chợ hạng 3 do xã, phường quản lý, kinh doanh những mặt hàng thông dụng và thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày của người dân.
|
|
Chợ biên giới
|
Là chợ nằm trong khu vực biên giới trên đất liền (gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia trên đất liền) hoặc khu vực biên giới trên biển (tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo).
|
|
Chợ cửa khẩu
|
Là chợ được lập ra trong khu vực biên giới trên đất liền hoặc trên biển gắn các cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nhưng không thuộc khu kinh tế cửa khẩu.
|
|
Chợ trong khu kinh tế cửa khẩu
|
Là chợ lập ra trong khu kinh tế cửa khẩu theo các điều kiện, trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
|
3. Chức năng của chợ
Các chức năng của chợ bao gồm:Mua bán hàng hoá; Hình thành giá cả thị trường cho hàng hoá; Tập trung và phân phối hàng hoá; Tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá và dịch vụ; Trao đổi thông tin thị trường; Cung ứng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh; Giao lưu văn hoá, xã hội...
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của chợ
Quá trình phát triển của các loại hình chợ phụ thuộc vào quá trình vận động và phát triển kinh tế - xã hội.Khi những điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi cũng sẽ làm thay đổi mức độ phù hợp hay khả năng đáp ứng của từng loại hình chợ đối với các hoạt động thương mại. Trong điều kiện của nền sản xuất nông nghiệp, chợ chiếm vị trí quan trọng trong việc phát triển thị trường và các hoạt động thương mại. Nhìn chung, các yếu tố có ảnh hưởng đến sự phát triển chợ bao gồm:
4.1. Các điều kiện tự nhiên và xã hội
Các điều kiện tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến vị trí được lựa chọn để xây dựng chợ. Các điều kiện tự nhiên, xã hội tham gia vào việc xác định vị trí không gian hay địa điểm cụ thể của chợ, bao gồm: địa hình, vị trí địa lý đảm bảo sự thuận tiện về giao thông, về nguồn cung cấp và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó, điều kiện tự nhiên, xã hội không chỉ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư vào chợ, mà còn ảnh hưởng đến những lợi ích của chủ thể đầu tư, cũng như của nền kinh tế.
Về chi phí, khi điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng được lựa chọn để xây dựng chợ càng thuận lợi sẽ góp phần làm giảm chi phí đầu tư xây dựng như chi phí san lấp mặt bằng, chi phí xây dựng các tuyến giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước… hay sẽ làm giảm chi phí hoạt động thường xuyên như chi phí sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị,…
Các điều kiện tự nhiên và xã hội cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút những người mua và người bán đến chợ. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến những lợi ích của chủ đầu tư và của nền kinh tế. Đối với các chủ đầu tư chợ, khả năng thu hút được nhiều người mua, người bán sẽ làm tăng doanh số mua vào, bán ra hay tăng khả năng khai thác cơ sở vật chất – kỹ thuật đã được đầu tư, qua đó làm tăng thêm thu nhập hay lợi nhuận của chợ. Đối với nền kinh tế, qui mô và phạm vi qui tụ những người mua, người bán của chợ càng rộng, lớn thì tác động của các hoạt động thương mại đối với sản xuất, tiêu dùng cũng như đối với các hoạt động kinh tế càng được phát huy và mang lại lợi ích chung cho nền kinh tế lớn hơn.
4.2.Trình độ phát triển sản xuất và tiêu dùng
+ Quá trình phát triển lĩnh vực sản xuất tạo ra cơ sở nguồn hàng cung cấp cho các hệ thống chợ: Trong đó, cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất là cơ sở quyết định đến cơ cấu nguồn hàng và cơ cấu sản phẩm được cung ứng qua hệ thống chợ và tạo mối liên kết kinh tế giữa các khu vực trong vùng và giữa các vùng sản xuất với nhau; Trình độ phát triển của công nghệ sản xuất sẽ đòi hỏi những hình thức trao đổi, mua bán phù hợp và khả năng tổ chức các kênh phân phối qua chợ; Qui mô và trình độ tổ chức sản xuất có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của các phương thức kinh doanh. Khi sản xuất ở qui mô cá thể, hộ gia đình và trình độ tổ chức sản xuất thấp thì số lượng người bán, người mua đông và phương thức mua bán chủ yếu là giao dịch trực tiếp từng lô hàng nhỏ lẻ. Khi sản xuất ở qui mô lớn là chính thì số lượng người bán là những người sản xuất trực tiếp sẽ giảm đáng kể và số lượng người phân phối chuyên nghiệp sẽ tăng lên... Vì vậy, trình độ phát triển của sản xuất có thể ảnh hưởng đến phát triển chợ trên các khía cạnh làm tăng hay giảm lợi ích từ hoạt động chợ tuỳ theo mức độ phù hợp của nó và làm tăng hay giảm chi phí hoạt động thường xuyên của chợ;
+ Quá trình phát triển của lĩnh vực tiêu dùng ảnh hưởng đến phát triển hệ thống chợ: Qui mô thu nhập và chi tiêu của các tầng lớp dân cư xác định khả năng mua sắm, yêu cầu về chất lượng hàng hoá, chu kỳ hay nhịp độ mua sắm,…của người tiêu dùng nên có ảnh hưởng đến thời gian hoạt động, số lượng khách hàng, doanh số mua vào, bán ra của các loại hình chợ; Những xu hướng phát triển của nhu cầu tiêu dùng và các điều kiện sống của dân cư quyết định cơ cấu, chất lượng, mức giá cả hàng hoá có thể bán ra qua hệ thống chợ; Những cách thức tiêu dùng của các tầng lớp dân cư có ảnh hưởng đến việc tổ chức và thực hiện các hoạt động dịch vụ mang lại giá trị gia tăng cho khách hàng, cũng như đến lợi ích của hệ thống chợ.
4.3. Trình độ phát triển lưu thông hàng hoá
Quá trình phát triển lĩnh vực lưu thông phụ thuộc chặt chẽ vào quá trình tập trung hoá trong sản xuất và tiêu thụ, thường phát triển từ qui mô nhỏ lẻ lên qui mô lớn hơn, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng lớn hơn.Tương ứng với qui mô và phạm vi lưu thông nhỏ hẹp là phương thức trao đổi, mua bán giao ngay và trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong một khu vực nhỏ. Khi qui mô và phạm vi lưu thông rộng lớn hơn, tầng lớp trung gian thương mại giữa người sản xuất và người tiêu dùng xuất hiện và đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các thương nhân cố định ở chợ sẽ thực hiện những phương thức, hình thức kinh doanh mới, tiến bộ hơn và tham gia tích cực vào hoạt động đầu tư phát triển chợ. Ngày nay, trong hệ thống chợ, ngoài những phương thức mua bán truyền thống như mua bán, mặc cả, thanh toán trực tiếp, bằng tiền mặt, còn có phương thức giao dịch, thanh toán điện tử, đấu giá, hợp đồng và các hoạt động xuất- nhập khẩu…
4.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa có những ảnh hưởng trực tiếp, vừa có những ảnh hưởng gián tiếp đến sự phát triển hệ thống chợ nước ta.
Những ảnh hưởng gián tiếp được biểu hiện qua những ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến cơ cấu sản xuất, trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh trên thị trường trong nước, nhu cầu tiêu dùng, cách thức mua sắm, tiêu dùng hàng hoá của dân cư… Những ảnh hưởng trực tiếp của hội nhập đến sự phát triển hệ thống chợ được biểu hiện cụ thể như:
+ Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ phân phối, đặc biệt là đầu tư vào các loại hình thương mại hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, các chuỗi cửa hàng tiện lợi, chợ đầu mối bán buôn… Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư đối với hệ thống chợ;
+ Với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, cạnh tranh trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tăng lên có thể sẽ làm tăng chi phí đầu tư phát triển hệ thống chợ (chủ yếu do mặt bằng giá cả trong nước được đẩy lên gần với mặt bằng giá cả quốc tế). Đồng thời, làm gia tăng các khoản chi cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của hệ thống chợ.
4.5. Năng lực của các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư nói chung khi đưa ra quyết định đầu tư luôn mong muốn và nỗ lực để thu được hiệu quả tài chính cao. Tuy nhiên, nhiều khi các nhà đầu tư vẫn gặp phải những tổn thất do nguyên nhân chủ quan gây ra. Những nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư có thể phân thành hai nhóm chủ yếu: Một là, những nguyên nhân trong quá trình đầu tư xây dựng; Hai là, những nguyên nhân trong quá trình khai thác năng lực phục vụ của hệ thống chợ đã được đầu tư.
Trong quá trình đầu tư, về phía chủ quan, những nguyên nhân gây tổn thất và làm giảm hiệu quả đầu tư bao gồm:
- Công tác quản lý đầu tư thiếu chặt chẽ, gây lãng phí và làm tăng chi phí đầu tư;
- Quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư xây dựng và các chợ cụ thể chưa được cân nhắc cẩn thận làm giảm khả năng hoạt động của chính cơ sở vật chất – kỹ thuật được đầu tư xây dựng;
- Quyết định về qui mô đầu tư chưa được dự tính đúng, phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường, xu hướng lưu thông hàng hoá, dẫn đến tình trạng hoặc là dư thừa công suất, hoặc là quá tải làm cho công trình nhanh xuống cấp;
- Những hạn chế của các nhà đầu tư về khả năng huy động và thực hiện vốn đầu tư xây dựng chợ để đạt được qui mô, các điều kiện hoạt động cần thiết đảm bảo tối đa hoá lợi nhuận;
Trong quá trình khai thác năng lực phục vụ của hệ thống chợ, về phía chủ quan, các nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư bao gồm:
- Việc tổ chức các hoạt động mua, bán hàng hoá thiếu khoa học làm tăng chi phí hoạt động của cơ sở kinh doanh tại chợ;
- Trong điều kiện thị trường cạnh tranh, nhà đầu tư thiếu những chi phí cần thiết để thực hiện các hoạt động thu hút, xây dựng nguồn hàng, xúc tiến thương mại và đẩy mạnh bán ra;
- Đối với các chợ, việc xác định giá bán hay cho thuê diện tích kinh doanh, các chính sách thu hút lực lượng tham gia kinh doanh tại chợ, các chính sách tổ chức và cung ứng dịch vụ phục vụ kinh doanh,… sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích và hiệu quả đầu tư xây dựng chợ.
4.6. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
Nhà nước gây tác động đến hiệu quả đầu tư phát triển hệ thống chợ thông qua các chính sách và qui định quản lý hệ thống chợ. Việc áp dụng hệ thống các biện pháp nhằm thực hiện những yêu cầu quản lý phát triển hệ thống chợ sẽ làm thay đổi những cơ sở ra quyết định, điều kiện thực hiện đầu tư và khả năng khai thác năng lực phục vụ của hệ thống chợ đã được đầu tư.
Những tác động của Nhà nước đến cơ sở ra quyết định, điều kiện thực hiện đầu tư của các chủ thể đầu tư vào hệ thống chợ bao gồm:
- Chính sách sử dụng đất chợ;
- Các qui định về thủ tục đầu tư, qui mô tối thiểu, tối đa của các hạng mục đầu tư,…
- Các chính sách sử dụng vốn Ngân sách nhà nước cho đầu tư chợ.
- Các chính sách, qui định của Nhà nước có liên quan khác, như chính sách tín dụng, chính sách kiểm soát giá, nhất là đối với các mặt hàng vật tư, nguyên liệu…
Những tác động của Nhà nước đến khả năng khai thác năng lực phục vụ của hệ thống chợ được đầu tư bao gồm:
- Các qui định về điều kiện tham gia và rời khỏi điểm kinh doanh tại các chợ đối với các hộ, các đơn vị kinh doanh.
- Các chính sách thuế đối với các hộ, các cơ sở kinh doanh hàng hoá và dịch vụ tại các chợ.
- Các chính sách quản lý giá cả, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, điều kiện kinh doanh các mặt hàng và các chính sách quản lý lưu thông hàng hoá khác.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản lý chợ, phát triển mạng lưới thông tin thị trường, áp dụng các phương thức giao dịch hiện đại và phát triển các dịch vụ của chợ...
- Các biện pháp cưỡng chế, giải toả đối với chợ tự phát và các hoạt động buôn bán tràn lan không đúng nơi quy định.
Nhìn chung, những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển hệ thống chợ được tập hợp từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển chợ, việc đánh giá đầy đủ và đúng các nhân tố ảnh hưởng khách quan và chủ quan không chỉ là vấn đề đặt ra đối với các nhà đầu tư vào hệ thống chợ, mà còn đối với cả Nhà nước. Đặc biệt, hiệu quả đầu tư phát triển chợ phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách phát triển kinh tế nói chung và chính sách phát triển chợ nói riêng của Nhà nước.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT