BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Một số yếu tố hình thành và phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm Vùng đồng bằng Sông Hồng

10/07/2025

TS. Trần Thị Thu Hiền

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

1. Ngành nông nghiệp

Vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có tiềm năng và lợi thế rất lớn về sản xuất nông nghiệp so với nhiều vùng kinh tế xã hội khác. Vùng ĐBSH có các vùng sản xuất lúa, ngô, rau thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp. Về chăn nuôi vùng ĐBSH chiếm 40% sản lượng cả nước, phát triển về nuôi trồng và đánh bắt thủy sản với 620km bờ biển, ngoài ra còn trồng và khoanh nuôi bảo vệ rừng, bảo vệ rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven biển.

ĐBSH luôn đứng đầu cả nước về năng suất lúa nhờ trình độ thâm canh cao, đứng thứ hai cả nước về diện tích và tổng sản lượng lương thực, phát triển mạnh chăn nuôi lợn, bò sữa, gia cầm. ĐBSH có xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản và tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ. Trong đó ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm tại các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH.

Nhiều địa phương đã chuyển đổi từ đất trồng lúa sang trồng hoa, rau, cây ăn quả và các loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao như Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên. Một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao và tạo ra thương hiệu, uy tín như nhãn lồng (Hưng Yên), cam Canh, bưởi Diễn (Hà Nội), dứa (Ninh Bình).

Những cánh đồng lúa ứng dụng công nghệ cao, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ vào sản xuất như nuôi cá, mô hình nuôi tôm, trồng dưa, cà chua trong các nhà lưới tại các tỉnh. Vùng ĐBSH phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn gắn với xây dựng nông thôn mới hiện đại, nông dân văn minh. Phát huy lợi thế nông nghiệp nhiệt đới, sản xuất sản phẩm theo chuỗi giá trị, phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp, dịch vụ. Phát triển các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh quy mô lớn, hình thành các cụm liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại, hàng đầu ở Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng. Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, phát triển trung tâm nghề cá lớn tại Hải Phòng.

Ngoài những kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, vùng ĐBSH đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất các vùng nguyên liệu còn chậm. Các mô hình liên kết đã xuất hiện nhưng quy mô còn nhỏ lẻ, chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của vùng. Mô hình “cánh đồng lớn” đã được thực hiện nhưng diện tích đất sản xuất nông nghiệp phân tán, manh mún, nhỏ lẻ nên khó ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa, tự động hóa vào sản xuất.

2. Ngành công nghiệp

Công nghiệp của vùng ĐBSH đã có những bước tiến nhanh, tỉnh Bắc Ninh đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ từ nông nghiệp sang công nghiệp. Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh đã thực hiện kết nối tăng trưởng kinh tế với phát triển công nghiệp.

Vùng đã có những bước phát triển mạnh mẽ về công nghiệp. Chỉ số sản xuất công nghiệp của vùng có tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp, dịch vụ tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Trong đó các tỉnh thành như Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Quảng Ninh có giá trị sản xuất công nghiệp cao nhất. Tỷ trọng GDP ngành công nghiệp của vùng ĐBSH so với cả nước tăng từ 29% năm 2018 lên 35% năm 2022, trong đó có công nghiệp phụ trợ là ngành quan trọng trong hỗ trợ phát triển cho ngành công nghiệp sản xuất, chế biến nông, lâm sản và thực phẩm. Ngành công nghiệp tại vùng ĐBSH phát triển nhanh nhưng còn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động qua đào tạo, có kỹ năng chưa cao, chưa thu hút được công nghệ cao vào sản xuất.

Công nghiệp chế biến, chế tạo có mức độ tương đồng khu vực (LQ) về giá trị sản xuất tương đương với mức trung bình của cả nước, như vậy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong đó có ngành chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm có xu hướng phát triển và đóng góp tích cực vào phát triển công nghiệp của các tỉnh thành và toàn vùng ĐBSH. Tuy nhiên, ngành công nghiệp nói chung và công nghiệp chế biến, chế tạo vùng ĐBSH nói riêng chủ yếu phát triển chưa mang tính bền vững, chưa có chiều sâu, nội lực nền công nghiệp một số tỉnh còn yếu, còn phụ thuộc vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, việc xây dựng và phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm sẽ góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm của vùng phát triển, đóng góp vào phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương và của cả vùng ĐBSH.

3. Ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm

Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm vùng ĐBSH có tốc độ phát triển tăng so với giai đoạn trước đây, nhất là ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm. Vùng ĐBSH có tiềm năng lớn trong phát triển công nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm, đây là ngành có sự tăng trưởng ổn định do nhu cầu tiêu dùng luôn cao. Các sản phẩm chế biến lương thực, thực phẩm có lợi thế so sánh của vùng ĐBSH như gạo, cá tra, thủy sản và các sản phẩm chế biến từ cây lúa mạch. Sự phát triển của công nghiệp sản xuất, chế biến thực phẩm tạo ra nhiều việc làm cho người dân địa phương cũng như tạo ra giá trị gia tăng lớn.

Tuy nhiên, công nghiệp chế biến thực phẩm, nông sản, thủy sản và thức ăn gia súc phát triển còn tương đối chậm, tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2011-2022 chỉ đạt bình quân khoảng 8,7%/năm. Các nhà máy, cơ sở chế biến đa số hầu hết ở quy mô vừa, nhỏ; các nhà máy chế biến có quy mô lớn, ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao chế biến sâu sản phẩm còn ít. Sản phẩm chế biến chưa đa dạng, chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, một số sản phẩm chính là thủy sản đông lạnh, đóng hộp, rau quả đóng hộp, đóng gói, sữa đóng gói, đồ uống (bia, rượu), bánh kẹo các loại. Các nhà máy, cơ sở chế biến thực phẩm, nông sản tập trung ở Hải Phòng, Hà Nội, Ninh Bình.

Vùng ĐBSH đã có nhiều dự án đầu tư vào ngành chế biến nông lâm sản thực phẩm, gắn kết chặt chẽ giữa chế biến và phát triển vùng nguyên liệu, chuỗi cung ứng. Tuy nhiên số lượng, quy mô và năng lực của đa số doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản và thực phẩm còn thấp. Mối liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và nông dân, hợp tác xã chưa chặt chẽ. Các mặt hàng rau quả, thịt có khối lượng đưa vào chế biến chỉ chiếm khoảng gần 10% sản lượng hàng năm, mặt hàng lúa gạo, rau quả, thủy sản không đủ công suất chế biến khi vào chính vụ gây ra tổn thất sau thu hoạch rất lớn. Các doanh nghiệp chế biến rau quả số lượng vẫn rất ít, ngoài ra còn có các cơ sở chế biến quy mô nhỏ, các hộ gia đình. Số cơ sở chế biến nông lâm, thủy sản có quy mô nhỏ và vừa, hộ gia đình chiếm tới 95%, các cơ sở sử dụng các thiết bị, công nghệ lạc hậu, tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng và năng suất thấp.

Doanh nghiệp thiếu nguồn cung ứng ổn định về số lượng, chất lượng, không phát huy hết quy mô đầu tư, công suất; nông dân thiếu thị trường ổn định, gặp tình trạng được mùa, mất giá. Bên cạnh đó thiếu nguồn đầu tư vào công nghiệp chế biến, hiện nay chỉ có các doanh nghiệp xuất khẩu lớn mới có dây chuyền hiện đại trong quy trình chế biến nông sản. Ngoài ra, vùng nguyên liệu phân tán, giao thông khó khăn, công nghiệp hỗ trợ không phát triển, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng cũng là những trở ngại khi phát triển cụm ngành công nghiệp.

Hầu hết các tỉnh thành vùng ĐBSH chưa có sự tích tụ đủ về lao động, doanh nghiệp trong ngành nông, lâm, thủy sản. Trong những năm tới, cần phát triển mạnh hơn các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm tại vùng ĐBSH, phát huy thế mạnh của một số ngành đã có sự phát triển nhất định. Từ đó là cơ sở để phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản và thực phẩm vùng ĐBSH.

4. Công tác quy hoạch, phát triển các Cụm liên kết ngành công nghiệp tại các địa phương

Trong giai đoạn vừa qua, các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) được hình thành và phát triển đã hỗ trợ và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa thành công. Các KCN, CCN được hình thành và đầu tư đã tạo ra lực hút lao động từ khu vực sản xuất nông nghiệp di chuyển sang khu vực sản xuất công nghiệp. Từ đó, đặt ra yêu cầu về phát triển hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất tại các khu, cụm công nghiệp.

Để phát triển các cụm liên kết ngành công nghiệp (LKNCN) tại vùng ĐBSH cần quy hoạch xây dựng, phát triển Cụm LKNCN có sự tương quan hợp lý giữa khu vực sản xuất với các khu vực khác như vùng trồng nguyên liệu, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, hệ thống logistics thuận lợi. Có thể đặt nhà máy sản xuất tại nhiều địa phương thuộc một cụm LKNCN. Ngoài ra, việc xây dựng các Cụm LKNCN cần phải đặt trong tổng thể các Cụm LKNCN khác của vùng ĐBSH.

Trong thời kỳ quy hoạch 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, định hướng phát triển KCN của vùng ĐBSH tập trung phát triển các khu công nghiệp sinh thái để thúc đẩy sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên, có sự liên kết, hợp tác trong sản xuất để thực hiện hoạt động cộng sinh công nghiệp trong và ngoài vùng ĐBSH. Ngoài ra, phát triển các khu công nghiệp chuyên ngành để hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp. Phát triển cụm LKNCN phải gắn với khai thác và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên đất đai, bảo vệ môi trường, thuận lợi kết nối hạ tầng kỹ thuật, có khả năng thu hút nguồn lao động của các địa phương trong vùng.

Các cụm LKNCN tại các tỉnh ven biển kết hợp với hệ thống cảng biển, các trung tâm dịch vụ logistics tạo được kết nối liên hoàn, đồng bộ với nhau, đảm bảo các hoạt động sản xuất và dịch vụ có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau phát triển hiệu quả, bền vững.

Nhìn chung, quy hoạch tại các địa phương chưa có tính đồng bộ, gắn kết giữa quy hoạch phát triển KCN, Cụm LKNCN với các quy hoạch kết cấu hạ tầng xã hội, nguồn nhân lực, sử dụng đất chưa cao. Quy hoạch chưa đánh giá được cụ thể và toàn diện định hướng phát triển của các khu vực lân cận. Ngoài ra, trong các quy hoạch chưa xác định rõ thế mạnh, lợi thế so sánh của địa phương và khai thác hiệu quả để phát triển các Cụm LKNCN nói chung và Cụm LKNCN sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy hải sản và thực phẩm nói riêng. Khi hình thành, xây dựng cụm LKNCN sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy hải sản và thực phẩm cần phải gắn với việc bảo vệ môi trường và đảm bảo các yêu cầu về mặt xã hội đối với người lao động và người dân trong các địa phương có cụm LKNCN.

5. Phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực

Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhân tố quyết định trong sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh của các doanh nghiệp và của vùng ĐBSH. Vùng ĐBSH là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của cả nước. Vùng ĐBSH có tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đứng đầu cả nước, toàn vùng có 291/552 tổ chức nghiên cứu và phát triển (R&D), có trên 150 trường đại học, học viện, có 14/17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Ngoài ra, vùng có hơn 500 tổ chức khoa học và công nghệ công lập và ngoài công lập, 5/22 sàn giao dịch công nghệ thiết bị, trên 300 doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đầu tư ngân sách cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hàng năm chiếm khoảng 30% so với cả nước (Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ).

Vùng ĐBSH có các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản là trung tâm nòng cốt trong việc ứng dụng hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong sản xuất nông nghiệp, hoạt động khoa học công nghệ chủ yếu tập trung vào nghiên cứu phát triển giống, cây trồng, vật nuôi. Hệ thống các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ, tư vấn quản lý cũng còn rất hạn chế, cả về số lượng và chất lượng dịch vụ.

Tuy nhiên, thời gian qua kết quả hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các tỉnh, thành phố còn yếu, cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu trong sản xuất, kinh doanh. Thị trường khoa học công nghệ trong vùng còn phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp tại các địa phương.

Trong xu thế chuyển đổi số, phát triển kinh tế số hiện nay, cần phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại các cụm liên kết ngành công nghiệp sản xuất - chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản và thực phẩm vùng ĐBSH khi được hình thành.

Vùng ĐBSH có nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao hơn so với mức bình quân cả nước.

Tuy nhiên vẫn còn thiếu lao động có chất lượng cao, có kỹ năng trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Nguồn nhân lực chưa đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu về chuyển giao kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đầu tư vào việc đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng cho nguồn nhân lực còn hạn chế.

6. Cơ sở hạ tầng phát triển Cụm LKNCN

Hạ tầng giao thông gồm mạng lưới đường bộ, đường cao tốc kết nối các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSH được đầu tư phát triển trong những năm vừa qua đã tạo thuận lợi trong quá trình vận chuyển và mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy hải sản và thực phẩm. Từ đó, tạo cơ hội thu hút đầu tư, chuyển giao và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực để phát triển ngành nông, lâm, thủy sản và ngành công nghiệp chế biến tại vùng ĐBSH.

Hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa được hoàn thiện do chưa thu hút được nhiều nguồn đầu tư. Việc hình thành Cụm LKNCN chủ yếu do các doanh nghiệp tự hoạt động, thiếu sự hỗ trợ và điều tiết của các cơ quan quản lý Nhà nước. Các yếu tố hình thành và tác động tới sự phát triển Cụm LKNCN đã dần hoàn thiện, tạo động lực thúc đẩy sự hình thành các CLKNCN.

Liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các doanh nghiệp chưa được hình thành với quy mô rộng và chặt chẽ, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế của vùng trong phát triển sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản và thực phẩm. Các tỉnh đều có tiềm năng trong phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp chế biến gỗ và giấy, sản xuất giường, tủ, bàn, ghế, những tỉnh, thành phố trên sẽ có sự lan tỏa và kết nối với các tỉnh, thành phố còn lại.

 Để phát triển các Cụm LKNCN cần đầu tư vào hạ tầng giao thông, mặt bằng, hệ thống thoát nước, điện. Hiện nay, một số tỉnh gặp phải hạn chế khi phát triển các Cụm LKNCN do không đủ quỹ đất, vị trí quy hoạch chưa thuận lợi về giao thông, khó thu thút được nhà đầu tư, một số quy hoạch liên quan có sự thay đổi, điều chỉnh ảnh hưởng đến công tác quy hoạch, phát triển cụm công nghiệp, Cụm LKNCN, cần phải xây dựng quy hoạch các Cụm LKNCN trên địa bàn các tỉnh trong kế hoạch dài hạn./.