Mỗi một quốc gia đều trông đợi ở các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ phối kết hợp với sức mạnh của các doanh nghiệp tư nhân trong việc theo đuổi các mục tiêu xã hội tương ứng - tức là trông đợi vào tính hiệu quả kinh tế và tính công bằng xã hội. Song trên thực tế, tình trạng các DNNN hoạt động kém hiệu quả, trở thành gánh nặng đối với ngân sách nhà nước, làm suy yếu cơ sở định hướng và quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước, là khá phổ biến. Tính cấp thiết của những vấn đề về DNNN càng nghiêm trọng vào những thời điểm Chính phủ phải đương đầu với những khó khăn gay gắt về mặt tài chính. Ví dụ: Vay nợ gặp khó khăn ở các nước chậm phát triển châu Á, châu Phi, chính sách thương mại và đầu tư của các nước Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Sin-ga-po... phụ thuộc và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc suy thoái kinh tế vào những năm đầu thập kỷ 80, tình hình trì trệ trong phát triển kinh tế của các nước Đông Âu, ... Điều đó đã buộc các nước phải xem xét các biện pháp khá triệt để nhằm thay đổi bộ mặt các DNNN. Vì vậy, chương trình cải cách khu vực kinh tế nhà nước (KTNN) đã được đưa ra ở tất cả các nước đang phát triển mà mục tiêu của nó tập trung chủ yếu vào tính hiệu quả của DNNN và được tiến hành đồng thời với các chương trình cải cách kinh tế khác.
Chương trình cải cách khu vực KTNN ở các nước nói chung đều tập trung vào những giải pháp đối với các DNNN theo hướng: Một là, thu hẹp phạm vi của khu vực KTNN bằng cách tiến hành những giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu mà trọng tâm là thực hiện quá trình tư nhân hóa các DNNN; Hai là đối với các DNNN còn giữ lại, tiến hành củng cố, cải tiến tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý và tăng cường các biện pháp kiểm soát của nhà nước đối với chúng.
1. Tư nhân hóa các DNNN
Tư nhân hóa là một phương án mạnh dạn hơn cả trong giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Về cơ sở lý luận, nó giải quyết được mâu thuẫn giữa quyền sở hữu về quyền kinh doanh trong các DNNN. Vì vậy, tư nhân hóa được coi là liều thuốc “cứu cánh” đối với các nước Đông Âu, cũng như ở một số nước nó được coi là nhân tố xúc tác của quá trình cải cách kinh tế - cuộc đấu tranh sống còn vì hiệu quả. Về mặt nội dung, quá trình tư nhân hóa được tiến hành theo hai bước: bước một, cổ phần hóa nhằm chuyển các DNNN thành các Công ty cổ phần trong đó nhà nước nắm phần lớn các cổ phần; bước hai, bán các cổ phần của nhà nước cho tư nhân - tư nhân hóa. Ở mỗi nước quá trình tư nhân hoá diễn ra có khác nhau nhưng chung quy lại nó được tiến hành theo các cách sau: Một là, tiến hành giải thể các DNNN làm ăn thua lỗ, không có mục tiêu; Hai là, tư nhân hóa quyền sở hữu; Ba là, tư nhân hóa công việc quản lý.
Giải thể các DNNN ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu là một trong những nội dung chủ chốt của cải cách KTNN, nó diễn ra trong điều kiện hết sức đặc thù: điều kiện một xã hội bị biến dạng, trong sự cấm đoán cố hữu sở hữu tư nhân, cho nên việc tìm kiếm các biện pháp, hình thức cụ thể thích hợp để giải thể là vấn đề trung tâm và khó khăn nhất. Có nhiều phương án tư nhân hóa DNNN, song giải pháp có triển vọng và thu hút được sự chú ý của xã hội ở các nước Đông Âu là chuyển các DNNN sang chế độ thầu khoán (để tập thể lao động có quyền mua doanh nghiệp đó), sang doanh nghiệp (DN), hợp tác xã hay DN “nhân dân”. Thực chất của giải pháp này là ở chỗ nó chuyển giao sở hữu nhà nước ở từng DN cho tập thể người lao động tại đó theo nguyên tắc có trả tiền nhưng giành sự ưu tiên cho những người làm việc tại DN. Ưu điểm của phương pháp chuyển giao này là các DN vẫn được bảo tồn, trong quá trình thay đổi sở hữu các DN vẫn hoạt động và nó còn được thừa hưởng một “nguồn vốn vô hình” đó là chính là uy tín trong các quan hệ bạn hàng của DNNN trước đây trên thị trường, mặt khác nó còn đảm bảo được nguyên tắc: quá trình cải cách phải gắn với quá trình phát triển, phát triển phải gắn với hiệu quả; các cổ đông có quyền thực sự tham gia quản trị DN với tư cách là người chủ sở hữu; hình thức này kết hợp được nguyên tắc tập thể và cổ phần để không hề loại bỏ vai trò quan trọng của các nhà quản lý chuyên nghiệp; mặt khác, vấn đề mang tính xã hội gay gắt của tư nhân hóa là giải quyết vấn đề người lao động thì giải pháp này phần nào cũng khắc phục được.
Tư nhân hóa quyền sở hữu các DNNN được tiến hành với quy mô khá rộng rãi ở các nước tư bản đã phát triển. Ở Anh nó được bắt đầu từ khi Thủ tướng Thát-chơ lên cầm quyền, còn ở các nước chậm phát triển quá trình này diễn ra còn chậm hơn.
Song, nhìn chung quá trình tiến hành tư nhân hóa gặp phải hai trở ngại lớn: Thứ nhất, vấn đề xã hội của tư nhân hóa là giải quyết công ăn việc làm và thu nhập của một lượng lớn người lao động; Thứ hai là vấn đề xác định lượng vốn Nhà nước thu về ở các DNNN đem ra cổ phần hóa và việc chống tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa. Ngoài ra còn có các vấn đề khác nhau: tư nhân không bao giờ mua cổ phần của các DNNN trước đây làm ăn kém hiệu quả, không có uy tín, việc bán cổ phần cho nước ngoài lại bất lợi ở chỗ nó mang lợi nhuận ra nước ngoài. Một trở ngại nữa cản trở đối với hiệu quả hoạt động của Công ty cổ phần vừa được thành lập từ cổ phần hóa DNNN là người đại diện cho sở hữu nhà nước được Bộ Tài chính hoặc bộ chuyên ngành cử làm thành viên của HĐQT hay Chủ tịch HĐQT trở lại thành người đứng phía trên Giám đốc điều hành Công ty, nhưng về thực chất anh ta lại không phải là “chủ sở hữu thực sự” đối với những tài sản đó, khi đó lại lặp lại mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh như ở các DNNN trước đây.
Tư nhân hóa công việc quản lý là bước quá độ của quá trình tư nhân hóa. Về mặt nội dung, đó chính là việc nhà nước cho tư nhân thuê các DNNN, thậm chí cho cả các Công ty nước ngoài thuê nhằm tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tận dụng nguồn vốn đầu tư... thông qua các hợp đồng ký kết cho thuê cơ sở vật chất kỹ thuật, cung cấp vốn, tạo điều kiện về các chính sách pháp luật (điển hình của giải pháp này là việc cho một Công ty của Mỹ thuê các cơ sở sản xuất của ngành sắt, thép ở Cộng hòa Tôgô). Việc áp dụng các hình thức quản lý Công ty tư nhân, các HÃNG vào điều hành quản lý các DNNN như khoán, đấu thầu. Ở Pháp, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc... cũng là bước quá độ được nhấn mạnh.
2. Hoàn thiện cơ chế quản lý và kiểm soát của nhà nước
Đây là giải pháp hết sức quan trọng đối với các DNNN còn được giữ lại. Về thực chất giải pháp này nhằm giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và DN trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối nhằm đảm bảo cho DNNN một cơ chế vận hành phản ứng linh hoạt với thị trường, đảm bảo vừa đạt được hiệu quả kinh tế vừa đảm bảo thực hiện các mục tiêu xã hội. Giải pháp này cho phép giải quyết rõ ràng mối quan hệ giữa quyền tự quyết của DN với sự can thiệp - Kiểm soát của nhà nước - với tư cách là người chủ sở hữu, cho phép phân định rõ chức năng quản lý hành chính và chức năng quản lý kinh doanh của nhà nước. Vì vậy nó được giải quyết ở một số điểm sau đây:
- Làm rõ các chính sách chỉ đạo của nhà nước đối với DNNN, trong khuôn khổ đó xác định rõ các mục tiêu phi thương mại. Vì rằng các mục tiêu chính là tiền đề cho cuộc cải cách kinh tế quốc dân, nhằm trao quyền tự chủ lớn hơn cho các nhà quản lý DNNN, từ các mục tiêu đặt ra cho DNNN mà xác định được cơ chế quản lý của nhà nước đối với DNNN.
- Hệ thống thể chế đồng bộ của quản lý vĩ mô tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNNN đi đôi với tăng cường tính chủ động của đơn vị cơ sở. Điều này đòi hỏi nhà nước phải hình thành những điều kiện cần thiết về pháp lý và tổ chức - kinh tế cũng như các công
Từ kinh nghiệm cải cách DNNN của một số nước cho thấy cần phải xây dựng được hai hệ thống làm công cụ cho việc tăng cường quản lý DNNN và tăng cường kiểm soát của nhà nước đối với DNNN theo các nội dung nêu trên, đó là hai hệ thống: hệ thống báo hiệu và hệ thống hợp đồng kinh tế.
Hệ thống báo hiệu được sử dụng để đánh giá các kết quả hoạt động của DNNN, nó bao gồm :
+ Hệ thống đánh giá kết quả thực hiện: mục tiêu, lượng (gần như là định mức) kết quả thực hiện ứng với các mục tiêu đề ra cho các DNNN.
+ Hệ thống thông tin kết quả thực hiện nhằm giám sát kết quả thực tế đạt được theo tiêu chuẩn trên.
+ Hệ thống khuyến khích gắn quyền lợi giữa nhà nước, người quản lý, và công nhân thông qua hệ thống khen thưởng, phân phối thu nhập theo các kết quả thực hiện.
Như vậy, thay vì trước đây nhà nước không có một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá kết quả hoạt động của DNNN và một chế độ khuyến khích, cổ vũ người lao động, thì hệ thống tiêu chuẩn đã lượng hóa về mặt giá trị kết quả đem lại do DNNN thực hiện hai mục tiêu: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, chế độ phân phối không những có tác dụng khuyến khích mà còn gắn chặt chẽ kết quả đạt được, tự chịu trách nhiệm đến tận người lao động.
Hệ thống hợp đồng kinh tế đã được thử nghiệm có kết quả ở Băng La Đét, Trung Quốc, Bolivia, Pháp và một số nước. Hệ thống này đưa ra được một hợp đồng giữa chính phủ và DNNN, trong đó làm rõ các mục tiêu đặt ra cho các DNNN dựa trên nền tảng cụ thể hóa các mục tiêu đó để gắn với trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích cần tôn trọng của từng bên. Các hợp đồng định ra dựa trên nguyên tắc thỏa thuận.
Công cụ này có ưu điểm ở chỗ nó thay thế việc kiểm soát tuỳ tiện của chính phủ. Mặt khác, việc kiểm soát thuộc về chức năng quản lý hành chính của nhà nước trong điều kiện này được các DNNN chấp nhận kiểm soát một cách tự nguyện và thực hiện các mục tiêu kiểm soát cũng là tự nguyện, đây là bước mới hẳn để vừa đảm bảo tăng cường được quyền tự chủ của DNNN, vừa tăng cường được sự kiểm soát của nhà nước đối với kết quả hoạt động của DNNN.
3. Cơ chế quản lý nội bộ
Cơ chế quản lý nội bộ của chủ sở hữu cũng là vấn đề cần xem xét. Thông thường, Hội đồng quản trị (HĐQT) cần có cơ chế giám sát hoạt động điều hành nhằm hạn chế rủi ro tài chính đối với DN. Tại các nước có hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện thì cơ chế quản lý nội bộ đóng vai trò quyết định trong chất lượng quản trị .
Vấn đề trách nhiệm và quyền lợi của người điều hành trong các Công ty nhà nước là một vấn đang được thảo luận. Xuất phát từ quan điểm coi DN là một tập hợp các quan hệ hợp đồng. Hợp đồng cơ bản nhất là hợp đồng giữa người chủ sở hữu thuê người điều hành quản lý công ty.Quan hệ tin tưởng giao nhiệm vụ cho các cá nhân thực hiện nhiệm vụ quản trị điều hành hiện nay, nhưng không thể được thể chế hóa bởi các quan hệ hợp đồng đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Tuy nhiên, cần lưu ý là hợp đồng thuê giám đốc là một dạng hợp đồng hoàn thiện do trong hợp đồng không thể liệt kê các tình huống có thể xảy ra trong điều hành của giám đốc.
Chính vì vậy, DN/công ty mới cần có HĐQT và Ban Kiểm soát (BKS) với tư cách đại diện chủ sở hữu để thực hiện hoạt động định hướng, kiểm soát đảm bảo hoạt động điều hành đi đúng hướng, phục vụ lợi ích của chủ sở hữu, hạn chế được quyền của người điều hành. Người bị ảnh hưởng trực tiếp từ các hành vi tư lợi cá nhân của người quản trị, điều hành là các cổ đông.
Sự bê bối tại Enron, Tyco...đã gây chấn động nước Mỹ và kéo theo hàng loạt các biện pháp quản lý nhằm hạn chế vấn đề người đại diện như tăng cường minh bạch thông tin, thay đổi cơ cấu, chức năng nhiệm vụ HĐQT, thắt chặt các tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán, nhiều vấn đề liên quan tới đạo đức kinh doanh được đề ra.Việc giải quyết vấn đề người đại diện trong các Công ty nhà nước cần bắt đầu từ vấn đề sở hữu, các quy định nội bộ, hệ thống pháp luật và đạo đức kinh doanh.
4. Bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam
Trình độ lãnh đạo và quản lý DN thể hiện ra trong việc hoạch định chiến lược, xây dựng các phương án kinh doanh, thiết kế loại hình và cơ cấu bộ máy của doanh nghiệp cũng như khả năng lãnh đạo tập thể người lao động, kiểm tra, kiểm soát các kênh hoạt động. Nhà quản lý cũng cần phải có hiểu biết sâu sắc về con người và lao động tập thể. Trong thời gian tới việc tuyển chọn tổng giám đốc/giám đốc (TGĐ/GĐ) các DNNN phải được đổi mới một cách căn bản, không nên tiếp tục cách làm lâu nay là một số cá nhân hoặc cơ quan quản lý nhà nước lựa chọn theo những tiêu thức tĩnh tại và chứa đầy các yếu tố chủ quan, cảm tiníh. Với chức năng là người điều hành hoạt động của DNNN theo những quy định, mục tiêu, nhiệm vụ của HĐQT,TGĐ/GĐ phải do HĐQT tuyển chọn công khai bằng hình thức thi tuyển và ký hợp đồng (sau khi đã trúng tuyển). Nội dung và phương pháp thi tuyển Giám đốc DNNN là vấn đề cần nghiên cứu nhưng nên theo trình tự sau đây:
- Xét chọn những người đủ điều kiện để tham gia thi tuyển. Những điều kiện chủ yếu bao gồm: trình độ kinh tế - kỹ thuật chuyên môn phù hợp với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, năng lực tổ chức thực hiện, quản lý điều hành (thể hiện qua thực tiễn công tác); và những phẩm chất chủ yếu như: năng động, dám chịu trách nhiệm, tính quyết toán, tính trung thực, tính tuân thủ pháp luật, tính kỷ luật...
- Tham dự thi tuyển theo bộ đề thi lý thuyết và thực hành trong đó có phần xây dựng hoặc xử lý các phương án tổ chức sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp một cách có hiệu quả. Nội dung bộ đề thi là một vấn đề cần nghiên cứu biên soạn để có thể phản ánh tương đối chính xác, trình độ năng lực và phẩm chất của giám đốc doanh nghiệp .
- Ký hợp đồng dưới hình thức “Hợp đồng thuê giám đốc” giữa HĐQT và TGĐ/GĐ. Nội dung hợp đồng này cần phải rõ những vấn đề cụ thể sau:
+ Những nhiệm vụ thường xuyên và không thường xuyên của TGĐ/GĐ trong việc điều hành sản xuất, kinh doanh của DNNN.
+ Những quyền hạn cụ thể của TGĐ/GĐ trong điều hành và giải quyết các mối quan hệ với các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mỗi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài v.v...
+ Chế độ trách nhiệm về vật chất, về hành chính và về hình sự của TGĐ/GĐ trước HĐQT và trước pháp luật.
+ Chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao và các đãi ngộ vật chất, tinh thần mà TGĐ/GĐ được hưởng từ việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
+ Mối quan hệ giữa HĐQT với TGĐ/GĐ trong công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp, chế độ trách nhiệm cụ thể của HĐQT đối với TGĐ/GĐ.
TGĐ/GĐ phải chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng. HĐQT mà trực tiếp là Ban kiểm soát có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc chấp hành hợp đồng này.
Để thực hiện chủ trương “Giám đốc do HĐQT tuyển chọn và ký hợp đồng với sự chấp nhận của cơ quan hành chính có thẩm quyền” (NQ TW4). Cần thiết phải thành lập những trung tâm (trường) đào tạo giám đốc và dần hình thành một “thị trường giám đốc” để có thể tuyển chọn được những giám đốc có đủ trình độ và năng lực cho các doanh nghiệp. Như vậy công việc quản lý của nhà nước chủ yếu là tổ chức, quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và điều tiết “thị trường giám đốc”, tạo nên môi trường cho các HĐQT và cơ quan hành chính có thẩm quyền lựa chọn, tuyển dụng.
Từ phía các nhà kinh doanh, mặt dù đã có được những bước phát triển vượt bậc họ xong nhiều DN chưa thoát ra khỏi tình trạng kinh doanh manh mún, thiếu chuyên nghiệp, không có chiến lược và không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình với nhà nước và xã hội. Đó chính là một trong những lý do khiến cho hình ảnh của nhà kinh doanh bị bóp méo.Ngoài ra, về mặt tâm lý, chính các nhà DN nhiều khi không dám tin tưởng vào vai trò sứ mạng của mình. Một số thiếu dũng cảm hoặc ý chí để quyết định đầu tư dài hạn.
Nhưng cuộc sống sẽ không cho phép chúng ta dừng lại. Đổi mới hay là chết ? Trong một thế giới biến đổi mau lẹ như thế giới ngày nay, để tồn tại và phát triển chúng ta phải có khả năng thích ứng, tự hoàn thiện để có thể hợp tác, hội nhập và nắm bắt các cơ hội một cách kịp thời. Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường, mà nòng cốt chính là các nhà DN.
Để hoàn thành tốt sứ mạng của mình, nhà DN cần phải đạt tới những tiêu chuẩn nhất định, và đến lượt mình, các tiêu chuẩn đó lại chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến.
Thực ra vấn đề không hoàn toàn mới. Con người, nói như Marx là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Dù hoạt động trong lĩnh nào, người ta cũng cần phải có các quy tắc chung để chung sống, và hơn nữa, để phát triển. Vai trò của các quy tắc chung đó là định hướng hoạt động con người, sao cho hoạt động của mỗi cá nhân phải phù hợp, hay ít nhất là không đi ngược lại lợi ích chung.
Nền văn hóa kinh doanh được thể hiện và chỉ có thể được thể hiện qua các doanh nhân. Xây dựng hệ tiêu chuẩn doanh nhân là một công việc lớn, cần có sự đóng góp của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân, ở đây, chỉ xin đưa ra một vài ý tưởng ban đầu. Đó là: các phẩm chất cá nhân của doanh nhân bao gồm chủ nghĩa yêu nước, ý thức công dân và các giá trị nhân bản của doanh nhân. Nói đến doanh nhân - trước hết phải là một công dân là nói đến khát vọng làm giàu. Một doanh nhân yêu nước phải biết kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích của đất nước. Chúng ta phải tôn vinh những người làm giàu chính đáng. Bởi chính họ đem đến sự thịnh vượng cho đất nước; Đó là các quan hệ xã hội của doanh nhân bao gồm: các quan hệ trong nội bộ cộng đồng doanh nhân, quan hệ với khách hàng, quan hệ với các tổ chức xã hội và các tầng lớp xã hội khác; Đó là vai trò chính trị của doanh nhân. Họ phải có tiếng nói trong đời sống chính trị. Đã đến lúc doanh nhân cần phải có tiếng nói xứng đáng của mình trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Họ phải là người tham mưu cho nhà nước về đường lối, chiến lược và sách lược kinh tế; Đó là tính tiên phong về tri thức của doanh nhân bao gồm: kỹ năng kinh doanh, tính sáng tạo và tính năng động của doanh nhân; Đó là khả năng hợp tác và cạnh tranh quốc tế của doanh nhân. Hợp tác tốt có nghĩa là có nhiều lợi thế và do đó có nhiều cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh.
Chúng ta còn có thể đưa ra nhiều tiêu chuẩn khác nữa, nhưng dù tiêu chuẩn nào thì cũng phải được xây dựng trên cơ sở của nền hệ thống cá giá trị được chấp nhận rộng rãi. Điều muốn nhấn mạnh ở đây là: hoạt động kinh doanh liên quan, thậm chí động chạm đến lợi ích - cả vật chất và tinh thần của nhiều người, nhiều tầng lớp trong xã hội nên cần phải được điều chỉnh trên những cơ sở mang tính văn hóa. Những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh một mặt phải buộc các doanh nhân tuân theo những tiêu chuẩn nhân bản phổ quát, mặt khác phải tạo cho doanh nhân một không gian tự do để hoạt động có hiệu quả. Nó phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh quốc tế và phải nhận được sự đồng tình rộng rãi của cộng đồng doanh nhân cũng như toàn xã hội. Trong thời đại toàn cầu hóa sôi động hiện nay, một nền văn hóa kinh doanh như vậy sẽ góp phần để nền kinh tế Việt Nam cùng cả nước hội nhập vào đời sống kinh tế chính trị toàn cầu.
Một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến là điều kiện tiên quyết để chúng ta xây dựng thành công cộng đồng những doanh nhân chuyên nghiệp, hạt nhân của nền kinh tế thị trường. Chỉ với một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến, các doanh nhân mới có thể phát huy được vai trò của mình, trở thành đồng minh kinh tế - chính trị của Đảng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh.
Ở nước ta vẫn còn thiếu các chương trình đào tạo doanh nhân tương lai. Hiện nay, các chương trình đào tạo khởi nghiệp tại nước ta còn ít, mới chỉ có một số chương trình do Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, một số cơ sở đào tạo phía Nam và một số tổ chức quốc tế (GTZ của Đức, AIT với sự hỗ trợ của Canada và Cộng đồng Châu Âu) tổ chức. Xuất phát từ thực tế đó, có thể thấy hệ thống giáo dục cần tập trung hơn nữa vào nâng cao tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong sinh viên, chú trọng đến cung cấp cho sinh viên các kỹ năng cơ bản về tìm kiếm ý tưởng khởi nghiệp, lập dự án kinh doanh, tìm kiếm đối tác... Đặc biệt, cần đưa định hướng đào tạo chủ DN tương lai vào mục tiêu đào tạo cho ra đời các chương trình đào tạo định hướng thành lập doanh nghiệp (đây là một chuyên ngành đào tạo khá thành công tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Pháp, Đức...).
Hai yếu tố thiết yếu hình thành năng lực tổng hợp của một doanh nhân là tố chất nghiệp chủ (còn gọi là tố chất kinh doanh) và năng lực quản lý. Trong nhiều trường hợp, một doanh nhân có được yếu tố thứ nhất nhưng lại thiếu yếu tố thứ hai; hoặc phát triển các yếu tố đó không hài hòa, không theo kịp sự phát triển nhanh chóng và sự đòi hỏi khắc nghiệt của hoạt động kinh doanh với mức độ cạnh tranh quốc tế hóa ngày càng cao.
Doanh nhân cần được chú trọng bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết và cập nhật những kiến thức hiện đại để đủ sức bước vào nền kinh tế tri thức. Một số kiến thức và kỹ năng có thể đã có nhưng cần được hệ thống hóa và cập nhật. So sánh với thực tiễn của các nước công nghiệp phát triển, cần đặc biệt chú ý bồi dưỡng những kỹ năng hữu ích về: kỹ năng quản trị, kỹ năng và nghệ thuật lãnh đạo của nghiệp chủ (đối với giám đốc), quản lý sự thay đổi và thích ứng với sự thay đổi, kỹ năng thuyết trình, đàm phán và giao tiếp với công chúng và kỹ năng quản lý thời gian.
Việc thiết kế hệ thống kiến thức trong chương trình đào tạo cần thực hiện theo phương châm cơ bản, hiện đại, thiết thực, bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại. Đồng thời, hệ thống kiến thức đó phải đáp ứng các tiêu chí cơ bản quy định chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức, tính tích cực chính trị - xã hội trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Theo đó, nội dung chương trình đào tạo bao gồm không chỉ những kiến thức thuần tuý về chuyên môn nghiệp vụ mà còn cả những kiến thức thuộc khoa học cơ bản có tính chất nền tảng về kinh tế và xã hội. Trong điều kiện ngày nay, điều quan trọng là nội dung chương trình đào tạo phải đem lại cho người học năng lực sáng tạo, khả năng thích ứng, phương pháp tư duy khoa học, khả năng biến tri thức thành kỹ năng nghề nghiệp, vốn hiểu biết vvà năng lực thực hành về văn hóa kinh doanh, văn hóa pháp luật; chuẩn bị cho họ tâm lý và thói quen kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Để nâng cao ý nghĩa thực tiễn của hệ thống kiến thức trong chương trình đào tạo, cần bảo đảm sự phù hợp của nói với thực tiễn hoạt động kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải lấy thực tiễn hoạt động kinh doanh làm cơ sở, mục đích và động lực để đổi mới nội dung chương trình, cách thức đào tạo và phương pháp giảng dạy. Chất lượng đào tạo được kiểm tra, thẩm định, đánh giá thông qua thực tiễn hoạt động kinh doanh; ngược lại, chính từ trong quá trình hoạt động kinh doanh, những yêu cầu về số lượng, cơ cấu và nhất là về chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh được đặt ra trực tiếp, là cơ sở để xác định quy mô, nội dung và phương thức đào tạo. Vì vậy, cần chú trọng tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với khai thác, sử dụng lao động, giữa nhà trường với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn, bên cạnh việc đào tạo các hệ chính quy và không chính quy dài hạn, nên mở các lớp ngắn hạn (kể cả đào tạo lại) để bồi dưỡng, bổ sung những kiến thức mới có liên quan đến hoạt động kinh doanh, giúp các nhà kinh doanh khỏi bỡ ngỡ, lạc hậu trong hoạt động của mình. Đồng thời, tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn hoạt động kinh doanh để khái quát về mặt lý luận, bổ sung vào nội dung bài giảng, rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn.Thường xuyên mở hội nghị khách hàng để thu thập các thông tin phản hồi về chất lượng đào tạo và những yêu cầu của thị trường lao động từ phía các cơ sở sử dụng sản phẩm đào tạo của trường. Trên cơ sở đó, điều chỉnh, bổ sung nội dung chương trình và cách thức đào tạo. Mặt khác, có thể mời các cán bộ quản lý kinh doanh, các nhà kinh doanh giỏi tham gia giảng dạy các giờ ngoại khóa...
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT