BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Chợ Việt Nam: Thực tiễn, vấn đề và giải pháp (P3)

04/04/2023

Phần 3: Chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu

1. Một số khái niệm và quy định

1.1. Một số khái niệm cơ bản

+ Chợ biên giới là chợ trên đất liền nằm trong khu vực xã, phường, thị trấn biên giới đã hình thành từ trước hoặc hình thành mới theo nhu cầu cần thiết của dân cư biên giới.

+ Chợ cửa khẩu là chợ được lập ra trong khu vực biên giới trên đất liền gắn với các cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nhưng không thuộc Khu kinh tế cửa khẩu.

+ Chợ trong khu kinh tế cửa khẩu là chợ được lập ra trong Khu kinh tế cửa khẩu theo Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19 tháng 04 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới.

1.2. Những quy chế chung của chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu

Quy chế này quy định về điều kiện của chủ thể kinh doanh và trình tự thủ tục cấp giấy phép kinh doanh tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu giữa Việt Nam với các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia. Quy chế được áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu bao gồm các doanh nghiệp, hộ kinh doanh Việt Nam và doanh nghiệp, hộ kinh doanh của nước có chung biên giới.

Hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu trên cả nước không ngừng phát triển, đã đáp ứng được nhu cầu trao đổi, giao lưu hàng hóa, dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng của cư dân, du khách, đồng thời đáp ứng được nhu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Tốc độ phát triển chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu ở một số tỉnh khá nhanh như Cao Bằng, Lào Cai, Tây Ninh, An Giang…Các tỉnh có chung đường biên giới với các nước có các chợ thuộc các huyện, xã biên giới đều thực hiện khá tốt công tác đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng chợ góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ ở các vùng biên giới. Hiện cả nước có 147 chợ biên giới, cửa khẩu và chợ khu kinh tế cửa khẩu, thuộc 23 tỉnh có đường biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia.

1.3. Chợ biên giới, cửa khẩu

Hiện nay, toàn quốc có tổng số 131 chợ biên giới, cửa khẩu. Mật độ phân bố chợ trên các tỉnh không đồng đều, có những tỉnh tập trung nhiều chợ ở khu vực biên giới, cửa khẩu bên cạnh đó lại có tỉnh có ít. Sở dĩ có sự không đồng đều đó là do việc hình thành và phát triển chợ biên giới, cửa khẩu phụ thuộc vào các yếu tố như diện tích tiếp giáp với nước bạn, số lượng và mật độ dân cư, khí hậu và phong tục tập quán của dân cư các huyện, xã vùng biên cũng như của toàn tỉnh.

Trong tổng số 131 chợ biên giới, cửa khẩu có 60 chợ thuộc 6 tỉnh biên giới giáp Trung Quốc, 23 chợ thuộc 9 tỉnh giáp Lào và 48 chợ thuộc 8 tỉnh giáp với Campuchia. Số liệu trên cho thấy mặc dù số lượng các tỉnh giáp Trung Quốc ít hơn so với các tỉnh giáp Lào và Campuchia nhưng các chợ biên giới, cửa khẩu lại chiếm số lượng nhiều hơn nhờ hoạt động mua bán tại biên giới Việt - Trung rất phát triển do vậy đã hình thành nhiều chợ biên giới, cửa khẩu. Bên cạnh đó số lượng các chợ biên giới, cửa khẩu giáp Lào và Campuchia rất ít và phân bố không đều, một số tỉnh chưa có chợ như Thừa Thiên Huế, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Kon Tum thuộc biên giới Việt - Lào, trong khi một số tỉnh có rất nhiều chợ như tỉnh Tây Ninh có 19 chợ biên giới, 2 chợ cửa khẩu hay tỉnh An Giang có 10 chợ biên giới và 3 chợ cửa khẩu thuộc biên giới Việt Nam - Campuchia. Những nguyên nhân của tình trạng trên trước hết là do trình độ tiêu dùng của địa phương chưa tạo ra nhu cầu xây dựng nhiều chợ để phục vụ đời sống sinh hoạt, thứ hai là do hoạt động kinh tế - thương mại tại biên giới của hai nước Lào và Campuchia chưa phát triển, hạn chế trong việc cung cấp nguồn hàng từ phía nước bạn và số lượng người đến mua bán tại chợ, thứ ba là các tỉnh có biên giới giáp Lào và Campuchia chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng và phát triển hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của dân cư và phát triển kinh tế - xã hội của toàn tỉnh.

1.4. Chợ trong khu kinh tế cửa khẩu

Chợ trong khu kinh tế cửa khẩu luôn đóng góp một phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển thương mại của tỉnh. Hoạt động kinh doanh mua bán tại các chợ trong khu kinh tế cửa khẩu cũng luôn diễn ra sôi động, chuyên nghiệp hơn và đáp ứng tốt các nhu cầu sinh hoạt của dân cư cũng như sản xuất, kinh doanh của các khu vực lân cận. Tuy nhiên, số lượng chợ trong khu kinh tế cửa khẩu hiện nay vẫn còn ít, mới có 16 chợ trên tổng số 24 tỉnh biên giới. Trong đó có 8 chợ trong khu kinh tế cửa khẩu giáp Trung Quốc (1 chợ thuộc tỉnh Hà Giang và 7 chợ thuộc tỉnh Lào Cai), có 8 chợ giáp Campuchia (1 chợ thuộc tỉnh Tây Ninh và 7 chợ thuộc tỉnh An Giang). Với mục tiêu chung là xây dựng và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trên toàn quốc đặt ra cho các tỉnh trong quá trình xây dựng hệ thống chợ cần chú trọng đến việc phát triển các chợ khu kinh tế cửa khẩu nhằm phát triển hoạt động thương mại tại các khu kinh tế cửa khẩu và phát triển thương mại của toàn tỉnh.

Bảng 01: Số lượng chợ trong khu kinh tế cửa khẩu

Stt

Tên tỉnh/thành phố

Tổng số chợ BG, CK, Khu KTCK hiện có

Chợ khu KT cửa khẩu

Tỉ lệ %

1

Hà Giang

29

1

3,45%

2

Lào Cai

17

7

41,2%

3

Tây Ninh

20

1

5%

4

An Giang

17

7

41,2%

Tổng

83

16

19,28%

Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra mạng lưới chợ

2. Số lượng chợ bình quân theo dân số, đơn vị hành chính, bán kính phục vụ

Theo số liệu điều tra, bình quân 1 chợ xã biên giới, cửa khẩu phục vụ 19.000 người, cho thấy ở nhiều tỉnh nhu cầu phát triển thêm các chợ xã biên giới, cửa khẩu là rất lớn. Ở một số tỉnh cụ thể như Cao Bằng 1 chợ phục vụ 3.225 người, Hà Giang là 2.764 người, Thanh Hoá là 9.563 người. Như vậy, ở các tỉnh khác nhau thì số lượng chợ bình quân theo dân số chênh lệch nhau rất nhiều. Chợ biên giới, cửa khẩu thường được xây dựng có quy mô phù hợp với dân số của từng vùng. Hiện nay, nhiều xã biên giới đã có chợ, tuy nhiên còn khá nhiều xã chưa xây dựng chợ, do vậy cần phát triển thêm chợ xã biên giới để phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của cư dân địa phương và những chợ được xây mới hay nâng cấp, cải tạo sẽ được phân loại theo quy mô dân số theo quy định.

Từ số liệu điều tra cho thấy các chợ xã biên giới, cửa khẩu của các tỉnh biên giới của cả nước có bán kính phục vụ trung bình là 18 km. Các tỉnh Cao Bằng và Lào Cai bán kính phục vụ của các chợ biên giới, cửa khẩu thường từ 10km đến 25km, một số tỉnh khác như Quảng Ninh, Quảng Bình…có bán kính phục vụ của chợ từ 40 km đến 80 km. Hầu hết các chợ biên giới, cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu đều có phạm vi hoạt động liên tỉnh.

Theo đơn vị hành chính, hiện nay bình quân có 0,3 chợ/ xã biên giới, nhưng tại các tỉnh số lượng chợ bình quân theo xã rất  khác biệt, những tỉnh có mật độ chợ biên giới cửa khẩu cao là: Kiên Giang - 1, Tây Ninh - 0,95, Hà Giang - 0,82, Hà Tĩnh, Đồng Tháp - 0,63,  Cao Bằng, Lào Cai - 0,38, những tỉnh có mật độ chợ rất thấp là: Lai Châu - 0,05, Sơn La - 0,1, Quảng Bình - 0,13,  Long An - 0,16…

3. Thực trạng cơ sở vật chất chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu

3.1. Thực trạng cơ sở vật chất hiện có

* Diện tích chiếm đất của các công trình chợ

Diện tích chiếm đất của các công trình chợ biên giới, chợ cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu trên cả nước có sự khác nhau không đáng kể, khoảng vài ngàn mét vuông, tuy nhiên cũng có một số rất ít các chợ có diện tích rất lớn khoảng 15 đến 30 ngàn mét vuông. Từ đó cho thấy diện tích các chợ không do quy mô của chợ quyết định mà do điều kiện mặt bằng cụ thể của từng chợ.

Ngoài ra, kết quả tổng hợp phiếu điều tra trên 23 tỉnh biên giới với 147 chợ biên giới, cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu hiện có cho thấy, trong cơ cấu diện tích kinh doanh so với diện tích xây dựng và tổng diện tích đất thì đa số các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu diện tích kinh doanh chiếm tỉ lệ nhỏ, điều đó chứng tỏ các chợ chưa tận dụng được hết diện tích hiện có do chưa có những quy hoạch hợp lý về diện tích các khu vực phục vụ cho hoạt động kinh doanh, mua bán của chợ.

* Cơ sở vật chất của chợ

Hiện nay, cả nước có đến 80% số chợ biên giới, cửa khẩu, chợ khu kinh tế cửa khẩu được xây dựng bán kiên cố, 15% số chợ được xây dựng kiên cố và khoảng 5% vẫn là lán tạm. Như vậy, có thể đánh giá rằng cơ sở vật chất chợ biên giới, cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu trên cả nước hiện nay vẫn còn nghèo nàn, có một số tỉnh, 100% số chợ biên giới, cửa khẩu là bán kiên cố và lán tạm như: Cao Bằng có 16 chợ trong đó 15 bán kiên cố và 1 chợ còn là lán tạm, Lào Cai hiện nay có 17 chợ trong đó có 14 chợ xây dựng bán kiên cố, 3 chợ là lán tạm và chỉ có duy nhất một chợ được xây dựng kiên cố. Như vậy, việc xây dựng phát triển chợ biên giới, cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu ở các tỉnh vẫn chưa được đầu tư đúng mức để phát triển cơ sở vật chất phù hợp với quy mô và diện tích cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Các chợ biên giới, chợ cửa khẩu và chợ trong Khu kinh tế cửa khẩu trên cả nước đã được hình thành khá lâu, có địa điểm và vị trí thuận lợi với hệ thống giao thông. Một số chợ hình thành một cách tự phát, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn chưa đảm bảo cho hoạt động của các chợ về không gian mua bán, vệ sinh môi trường, mỹ quan. Cơ sở hạ tầng của hệ thống chợ hiện có tuy đã được đầu tư nhưng so với yêu cầu thì chưa đáng kể. Nhiều chợ bị xuống cấp do thiếu kinh phí sửa chữa, nâng cấp, đa số các chợ thuộc các tỉnh đều thuộc dạng bán kiên cố và lán tạm, trang thiêt bị thiếu thốn, hệ thống vệ sinh, cấp thoát nước, phòng cháy, chữa cháy chưa đảm bảo.

3.2. Tình hình đầu tư xây dựng chợ

Vốn đầu tư xây dựng chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu thường được cấp từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, tuy nhiên một số tỉnh có nguồn vốn chủ yếu được đầu tư từ những thương nhân hoạt động buôn bán tại chợ và những nhà đầu tư bên ngoài góp vốn. Với nguồn vốn đầu tư vào chợ ngày càng đa dạng về nguồn đầu tư giúp cho các chợ phát triển và nâng cao được quy mô, cơ sở vật chất một cách nhanh chóng và hoạt động của các chợ biên giới, cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu ngày càng hiệu quả.

4. Thực trạng về đảm bảo an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm

4. 1. Thực trạng về an toàn giao thông

Chợ biên giới, cửa khẩu thường nằm ở những vị trí đầu mối giao thông chính, gắn với các trục lộ tiện lợi cho vận chuyển và lưu thông hàng hoá, do vậy khi có sự gia tăng về số lượng người, phương tiện giao thông và hàng hoá đến chợ thì vấn đề mất an toàn giao thông tại khu vực chợ cũng gia tăng đáng kể. Đồng thời chính sự mất an toàn giao thông trên khu vực chợ lại ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đảm bảo sự thuận tiện trong việc trao đổi mua bán hàng hoá qua chợ. Đây là mâu thuẫn tồn tại trong quá trình phát triển chợ, một phần  là do sự mất cân đối giữa sự phát triển của hoạt động chợ và khả năng đầu tư phát triển các điều kiện hạ tầng cơ sở. Mặt khác do chưa có quy hoạch tổng thể về xây dựng và quản lý chợ để làm cơ sở cho việc triển khai thống nhất cho tất cả các tỉnh biên giới nên vẫn xảy ra tình trạng chợ quá cũ, chợ tạm gây ra việc ách tắc, cản trở giao thông trong quá trình hoạt động của chợ.

4.2. Thực trạng về bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm

Các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu thường là chợ kinh doanh tổng hợp kinh doanh các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, hàng nông sản thực phẩm. Hầu hết các chợ trên cả nước trong đó bao gồm cả các chợ biên giới, cửa khẩu kinh doanh mặt hàng nông sản thực phẩm tươi sống nhưng chưa chú trọng đến khâu bao gói, bảo quản sản phẩm trước khi bán và việc sơ chế sản phẩm cũng chưa được kiểm định một cách chặt chẽ, nhiều khi khâu sơ chế được diễn ra ngay tại chợ. Do vậy, lượng rác thải ở chợ hàng ngày là khá lớn, dễ gây mùi hôi thối làm ảnh hưởng đến môi trường chợ và an toàn vệ sinh thực phẩm đối với các sản phẩm được lưu thông qua chợ. Bên cạnh đó, nhiều chợ không có hệ thống thoát nước, xử lý nước thải nên đã gây ô nhiễm môi trường. Đây là những vấn đề đặt ra cần được giải quyết kịp thời đối với các chợ biên giới, cửa khẩu và các chợ trong Khu kinh tế cửa khẩu.

5. Thực trạng kinh doanh trong chợ

5.1. Chủ thể tham gia kinh doanh

Tại các chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu thành phần tham gia là tư nhân và sản xuất nhỏ ngày càng gia tăng và chiếm tỷ lệ ngày càng cao.

Do đặc điểm địa lý nên các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam thường có những người dân của các nước bên kia biên giới như Trung Quốc, Lào, Cămpuchia tham gia kinh doanh tại chợ. Đội ngũ này chiếm tỷ lệ tuy nhỏ nhưng cũng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh và mua bán diễn ra trong chợ. Ngoài khách mua bán là dân cư địa phương thì còn có rất nhiều khách hàng là người nước bạn sang mua hàng tại chợ biên giới, cửa khẩu ở Việt Nam, vậy việc tham gia của các chủ thể kinh doanh là thương nhân các nước có đường biên với Việt Nam sẽ tạo thuận lợi cho việc giao lưu và mua bán hàng hoá tại các chợ.

5.2. Các loại hình kinh doanh bán buôn, bán lẻ và phương thức giao dịch

* Ngành hàng kinh doanh:

Trong các chợ biên giới, chợ cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, số chợ kinh doanh tổng hợp chiếm gần 90%, ngoài ra chợ chuyên kinh doanh các ngành hàng công nghiệp tiêu dùng hay nông sản thực phẩm chiếm tỉ lệ nhỏ. Chợ biên giới, cửa khẩu không chỉ phục vụ chủ yếu cho nhu cầu hàng ngày của dân cư lân cận mà còn phục vụ khách tham quan du lịch, và những người mua buôn với khối lượng lớn do vậy ngành hàng kinh doanh trên các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu rất phong phú và đa dạng. Hàng hoá ở đây bao gồm: thực phẩm tươi sống, tạp hoá, nông sản khô (chiếm tỉ lệ nhỏ),hàng may mặc và giầy dép (chiếm tỉ lệ tương đối lớn) ngoài ra có một số chợ kinh doanh về điện tử, điện máy với tỉ lệ rất lớn so với các ngành hàng khác.

* Phương thức kinh doanh và giao dịch:

Phương thức kinh doanh và giao dịch tại các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu thường theo hình thức trực tiếp. Tại các chợ người mua và người bán gặp gỡ nhau trực tiếp, người mua có thể xem xét hàng hoá cần mua về chủng loại, chất lượng, mẫu mã, giá cả…ngay tại nơi mua hàng, sau đó hai bên mua và bán trực tiếp thoả thuận với nhau về giá cả hoặc vận chuyển hàng hoá. Phương thức thanh toán cũng thường diễn ra trực tiếp bằng tiền mặt, hàng hoá được trao ngay cho người mua sau khi người mua thanh toán đủ số tiền mua hàng.

Hình thức giao dịch kinh doanh trực tiếp đã tồn tại từ trước và đến nay vẫn tiếp tục được lưu giữ và phát triển. Nguyên do của phương thức này xuất phát từ việc các chợ biên giới, cửa khẩu vừa là nơi mua bán hàng hoá phục vụ nhu cầu người dân vùng biên, vừa là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá truyền thống, do đó nhu cầu gặp gỡ của cư dân vùng biên rất lớn, chợ là nơi giao lưu, trao đổi thông tin giữa mọi người, các hoạt động văn hoá truyền thống cũng được diễn ra thường xuyên ở một số chợ biên giới, cửa khẩu.

5.3. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh

Hầu hết tại các chợ chưa có các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như tín dụng, tư vấn thông tin, phổ biến và chuyển giao công nghệ…do phương thức kinh doanh còn đơn giản và các dịch vụ như bảo quản hàng hoá, kho, vận chuyển, bốc dỡ…đều do tư thương tự thực hiện. Trong tương lai cùng với sự mở rộng và phát triển của hệ thống chợ trên toàn quốc, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cần được phát triển để đáp ứng và thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh tại các chợ biên giới, cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu.

6. Thực trạng tổ chức và quản lý chợ

6.1. Hình thức tổ chức quản lý chợ

Hình thức tổ chức quản lý phổ biến hiện nay ở các chợ biên giới, cửa khẩu là ban quản lý, tổ quản lý chợ. Cấp quản lý nhà nước đối với các chợ bao gồm có Uỷ ban nhân dân xã, thị xã, thị trấn, huyện, thành phố…

6.2. Nội dung, nhiệm vụ quản lý chợ biên giới, cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu

* Quản lý về tài chính:

Nguồn thu lớn nhất từ các chợ là các loại thuế do cơ quan thuế trực tiếp thu tại các hộ kinh doanh trong chợ. Ban quản lý chợ hay tổ quản lý chợ thu từ các loại phí như thuê gian hàng, quầy hàng, các dịch vụ giữ hàng, giữ xe, vận chuyển…Hiện nay các chợ biên giới, cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu hầu hết đã có các ban quản lý hoặc tổ quản lý nhưng chưa được tổ chức một cách khoa học và chưa được đào tạo về chuyên môn nên ảnh hưởng rất lớn trong việc quản lý nhất là việc thất thu về tài chính cho ngân sách của nhà nước.

* Quản lý các hộ kinh doanh trên chợ:

Do đặc điểm của các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu có nhiều chủ thể tham gia kinh doanh mua bán, khối lượng hàng hoá lưu chuyển khá lớn. Bên cạnh việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của dân cư, còn có sự giao lưu mua bán với khách du lịch đến để buôn bán, tham quan. Các chợ này thực sự là đầu mối tiêu thụ hàng hoá với những ngành hàng phong phú và đa dạng, có nhiều chủ thể tham gia kinh doanh và số người đến các chợ này với nhiều mục đích khác nhau. Việc quản lý các hộ kinh doanh đòi hỏi phải có những quy định pháp lý cụ thể và thống nhất của nhà nước trong công tác quản lý các hộ kinh doanh trên chợ. Hiện nay, mặc dù đã tổ chức quản lý các hộ kinh doanh, nhưng vẫn có những điểm hạn chế như chưa có sự phân chia các hộ kinh doanh thành từng lĩnh vực hay địa bàn cụ thể để quản lý từ đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của chợ.

* Quản lý cơ sở vật chất chợ:

Mặc dù đã có ban quản lý hoặc tổ quản lý ở hầu hết các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, nhưng vẫn xảy ra tình trạng tài sản trong chợ bị hư hỏng, thất thoát. Ngoài ra, chưa có bộ phận trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm về cơ sở vật chất nên tài sản bị xuống cấp nhanh chóng và vệ sinh môi trường ô nhiễm làm ảnh hưởng đến tuổi thọ của công trình chợ và các tài sản có trong chợ.

6.3. Nguyên nhân các chợ hoạt động chưa hiệu quả

* Hầu hết chợ biên giới, cửa khẩu nằm ở các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội còn kém phát triển nên đã hạn chế sự phát triển thương mại tại các địa phương thuộc vùng biên giới và do đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng và phát triển hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu.

* Hạ tầng kỹ thuật nói chung và hạ tầng kỹ thuật thương mại nói riêng ở các tỉnh còn nghèo nàn, lạc hậu dẫn đến cơ sở vật chất kỹ thuật của chợ còn rất nghèo nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển quy mô của chợ. Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở vật chất chợ còn hạn hẹp do nguồn ngân sách và vốn huy động từ các hộ kinh doanh còn rất hạn chế.

* Sản xuất hàng hoá ở các địa phương này chưa phát triển, thu nhập bình quân đầu người và sức mua còn thấp. Nhu cầu tiêu dùng chủ yếu của người dân tập trung vào các mặt hàng thiết yếu được kinh doanh chủ yếu tại các chợ biên giới, đối với chợ cửa khẩu và chợ trong khu kinh tế cửa khẩu có nhiều ngành hàng phong phú, đa dạng hơn vì ngoài dân cư địa phương còn có lực lượng lớn các khách thập phương đến đây mua bán.Vì vậy, cần đặt ra những giải pháp trong việc xây dựng, quy hoạch các khu vực kinh doanh trong chợ cũng như việc phát triển đa dạng các loại chợ (chợ nông sản, chợ gia súc, chợ tổng hợp…)

* Phương thức kinh doanh trên chợ còn mang nặng tính truyền thống, đơn giản, trao đổi trực tiếp nhưng thực tế hiện nay đặt ra là nhu cầu mua bán của dân cư có xu hướng ngày càng tăng với khối lượng lớn yêu cầu hoạt động của hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu ngày càng phải văn minh hơn, hiện đại hơn mới đáp ứng được nhu cầu của dân cư và khách mua bán tại chợ.

* Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trên chợ chưa phát triển cả về cung và cầu. Các dịch vụ như tín dụng, tư vấn thông tin, phổ biến và chuyển giao công nghệ… chưa được các hộ kinh doanh quan tâm đúng mức, điều này kéo theo việc cung cấp các dịch vụ này cũng chưa thực sự phát triển.

* Công tác tổ chức và quản lý chợ thiếu tính thống nhất trong cả hệ thống và thiếu sự đào tạo về chuyên môn quản lý chợ và chưa thực sự hiểu được vị trí, vai trò và yêu cầu phát triển chợ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung. Vấn đề đặt ra là cần phải có đội ngũ quản lý chợ qua đào tạo và xây dựng được mô hình quản lý kinh doanh chợ phù hợp và hiệu quả.

* Thiếu sự quan tâm quản lý và đầu tư của các thành phần kinh tế trong xã hội đối với chợ.

7. Đánh giá chung        

7.1. Những mặt đạt được

* Về kinh tế:

- Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu ngày càng phát triển cả về quy mô và số lượng với sự tham gia kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế. Hàng hoá trên chợ ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng đáp ứng cho nhu cầu của dân cư và sản xuất góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống của dân cư địa phương.

- Việc xây dựng và  nâng cao hạ tầng cơ sở tại các chợ biên giới, cửa khẩu góp phần vào sự phát triển cơ sở vật chất của toàn tỉnh.

- Hệ thống quản lý chợ của các cấp lãnh đạo từ tỉnh đến địa phương đã từng bước đổi mới về cách thức và phương pháp thích ứng được với những biến chuyển của kinh tế thị trường và những thay đổi trong nhu cầu của cư dân địa phương. Từ đó thúc đẩy sự phát triển và cải tiến sâu rộng toàn bộ hệ thống quản lý thương mại của các tỉnh biên giới.

- Nhà nước đã đưa ra một số chính sách cụ thể về phát triển hệ thống chợ, thực hiện việc tổ chức hướng dẫn chính sách, định hướng pháp triển, cung cấp thông tin, kiểm tra, kiểm soát giúp hoàn thiện hoạt động của hệ thống các chợ. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua bán, kinh doanh tại các chợ biên giới, cửa khẩu và đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất.

* Văn hoá, xã hội:

- Việc hoàn thiện và phát triển hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu ngoài việc đem lại các lợi ích về kinh tế còn góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thông qua việc kết hợp hài hoà giữa hoạt động mua bán với các hoạt động văn hoá truyền thống của địa phương.

- Đời sống của người dân được thể hiện rõ nét qua sự phát triển của chợ. Hệ thống chợ biên giới, cửa khẩu ngày càng phát triển góp phần cải thiện mức sống của người dân cả về vật chất và tinh thần, điều này giúp cho sự phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá và xã hội của các tỉnh biên giới.

7.2. Những vấn đề đặt ra

- Cơ sở vật chất kỹ thuật của chợ nhìn chung còn hạn chế .

- Về hàng hoá được kinh doanh ở hầu hết các xã biên giới còn nghèo nàn về chủng loại.

- Tại hầu hết các chợ chưa hiện hữu tích cực các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh hàng hoá trên chợ.

- Còn thiếu các động lực để thực hiện xã hội hoá trong đầu tư và kinh doanh tại các chợ biên giới, cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu.

- Chưa có chợ biên giới, cửa khẩu kết hợp được cả tính truyền thống và hiện đại.

- Thực tiễn đòi hỏi phải xây dựng một cách có hệ thống và khoa học các chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu nhằm giúp cho việc quản lý và hoạt động được diễn ra thuận lợi và đạt được hiệu quả cao.

- Phát triển chợ cần kết hợp lưu giữ được những nét đặc trưng về văn hoá của vùng, miền biên qua hoạt động mua bán của chợ

- Cần xây dựng một đội ngũ các thương nhân và những người quản lý được qua đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ phù hợp với hoạt động của chợ biên giới, cửa khẩu nói riêng và phù hợp với xu thế hội nhập chung của Việt Nam.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT