BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Công tác quản lý nhà nước trong ngành cơ khí chế tạo và sản xuất, lắp ráp ô tô Việt Nam

27/12/2022

1. Công tác quản lý nhà nước trong ngành

Công tác quản lý nhà nước đối với ngành cơ khí chế tạo và sản xuất, lắp ráp ô tô Việt Nam trong năm 2021 của Cục Công nghiệp đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp tiếp tục dựa vào tăng trưởng của ngành chế biến, chế tạo với mức tăng trưởng khá cao; tình hình tiêu thụ thuận lợi, tồn kho ở mức thấp nhất trong nhiều năm vừa qua. Sản xuất trong nước đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu của xã hội, kể cả các hàng hóa thông dụng và hàng hóa thiết yếu. Sản xuất liên tục được mở rộng với sự đóng góp của các ngành điện tử, dệt, ô tô...

Trong năm qua, Cục Công nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với đầu mối tại các bộ, ngành liên quan nghiên cứu các kiến nghị, đề xuất của Hiệp hội và các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam, từ đó tham mưu cho Lãnh đạo Bộ Công Thương đề xuất các chính sách, giải pháp nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam lên Chính phủ. Có thể kể đến một số nhóm chính sách, giải pháp sau:

- Nhóm chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19

+ Chính sách hỗ trợ giảm mức thu lệ phí trước bạ (LPTB) đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước:

Trong năm 2020 và 2021, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi tác động của đại dịch COVID-19 do thị trường tiêu thụ sụt giảm. Trên cơ sở kiến nghị của Hiệp hội và các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, Cục Công nghiệp đã tham mưu cho Lãnh đạo Cục Công nghiệp, Lãnh đạo Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trong năm 2020 tại Nghị định số 70/2020/NĐ-CP (áp dụng từ ngày 28/6/2020 đến hết ngày 31/12/2020) và tái áp dụng chính sách giảm mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trong năm 2021 tại Nghị định số 103/2021/NĐ-CP (áp dụng từ ngày 01/12/2021 đến hết ngày 31/5/2022). 

Với sự hỗ trợ kịp thời này của Chính phủ, thị trường ô tô năm 2020 đã có bước tăng trưởng đáng kể trong 6 tháng cuối năm 2020 (mức tăng trưởng so với 6 tháng đầu năm 2020 là xấp xỉ 90%), kéo theo đó là rất nhiều tác động tích cực khác tới hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp ô tô trong nước, tạo công ăn việc làm, gia tăng sản lượng và đóng góp đáng kể vào mức tăng thu ngân sách nhà nước nửa cuối năm 2020. Trong năm 2021, việc Chính phủ tiếp tục giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước được dự báo sẽ có những tác động tích cực như: Kích cầu tiêu dùng, khuyến khích người dân mua sắm, sở hữu tài sản; tác động thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước nối lại chuỗi cung ứng, tăng cường mở rộng đầu tư sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam.

+ Chương trình ưu đãi thuế đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước:

Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô trong nước, khắc phục tình trạng doanh nghiệp chỉ hưởng ưu đãi thuế mà không đầu tư mở rộng sản xuất tại Việt Nam, qua đó góp phần hỗ trợ cho thị trường ô tô tăng trưởng ổn định, tiến tới mục tiêu xuất khẩu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 125/2017/NĐ-CP và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP, trong đó quy định về Chương trình ưu đãi thuế đối với sản xuất, lắp ráp ô tô (sau đây gọi là Chương trình ưu đãi thuế). Theo đó, doanh nghiệp có Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, lắp ráp ô tô do Bộ Công Thương cấp và đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Nghị định (về linh kiện, mẫu xe, sản lượng, khí thải, kỳ xét ưu đãi, hồ sơ, thủ tục) được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN 0% đối với linh kiện ô tô nhập khẩu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được. Chương trình ưu đãi thuế được áp dụng trong giai đoạn từ 2017-2022. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của ô tô nhập khẩu trong bối cảnh cắt giảm hàng rào thuế quan theo các Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhiều lĩnh vực phải ngừng hoạt động trong thời gian dài, trong đó lĩnh vực vận tải, vận chuyển hành khách công cộng gần như đình trệ cùng với thu nhập của người dân giảm sút đã làm cho doanh số bán ra của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước sụt giảm mạnh, nhất là dòng xe ô tô bus, minibus và xe khách.

Theo đó, để tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô trong nước, trên cơ sở kiến nghị của Hiệp hội và các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, Cục Công nghiệp đã tham mưu cho lãnh đạo Cục Công nghiệp, lãnh đạo Bộ Công Thương trong việc phối hợp với Bộ Tài chính tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 101/2021/NĐ-CP điều chỉnh một số nội dung của Chương trình ưu đãi thuế đối với sản xuất, lắp ráp ô tô. Theo đó, Nghị định đã sửa đổi, bổ sung quy định về kỳ xét ưu đãi thuế theo hướng doanh nghiệp được lựa chọn kỳ xét ưu đãi thuế 6 tháng hoặc 12 tháng. Đồng thời, Nghị định đã điều chỉnh điều kiện về sản lượng để tham gia Chương trình ưu đãi thuế cho phù hợp với bối cảnh mới. Đặc biệt, trên cơ sở các kết quả đạt được từ việc thực hiện Chương trình giai đoạn vừa qua, tại Nghị định số 101/2021/NĐ-CP, Chính phủ đã quyết định kéo dài thời gian thực hiện Chương trình này đến 31/12/2027. Quy định này giúp các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô chủ động xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh trong các năm tiếp theo, qua đó góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô trong nước phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước.

2. Thực trạng phát triển ngành

2.1. Kết quả đạt được

- Ngành cơ khí đã từng bước làm chủ công tác thiết kế, chế tạo kết cấu thép, và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Các sản phẩm trước đây phải nhập khẩu hoàn toàn đã từng bước được thay thế bằng sản phẩm do ngành cơ khí trong nước chế tạo. Các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã làm chủ được công nghệ, sản xuất được các loại thiết bị cơ khí thuỷ công cho các nhà máy thuỷ điện; dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy công nghiệp.

- Mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong 4 năm trở lại đây. Theo số liệu của Cục Đăng kiểm Việt Nam, sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước từ năm 2019 đến nay như sau:

Số lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

Năm 2021

287.586

363.800

249.000

299.800

(Ghi chú: số liệu tính cho loại hình sản xuất, lắp ráp từ linh kiện rời, không bao gồm loại hình sản xuất, lắp ráp từ xe sát xi cơ sở hoặc xe mới khác đã được chứng nhận)

- Các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp trong nước đã bước đầu khẳng định vai trò, vị trị đối với thị trường ô tô trong nước và đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Tính đến hết năm 2021, cả nước có khoảng hơn 40 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô với sản lượng sản xuất lắp ráp trong nước đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe dưới 9 chỗ trong nước. Nhiều hãng lớn trên thế giới có hoạt động sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia sâu vào chuỗi sản xuất ô tô toàn cầu. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Thái Lan, Philippines…

- Các chủng loại xe tải nhẹ dưới 7 tấn, xe khách từ 25 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra, đáp ứng cơ bản nhu cầu thị trường nội địa (xe tải đến 07 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu).

- Đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng tỷ USD/năm và giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp. 

- Chất lượng xe sản xuất, lắp ráp trong nước và xe nhập khẩu được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.

2.2. Hạn chế

- Ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam hiện mới chỉ tham gia vào phân khúc thấp của chuỗi giá trị ngành ô tô; phụ thuộc lớn vào sự phân công sản xuất của các Tập đoàn ô tô toàn cầu, chưa làm chủ được các công nghệ cốt lõi như động cơ, hệ thống điều khiển, hệ thống truyền động.

- Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước vẫn chưa đạt được tiêu chí của ngành sản xuất ô tô thực sự. Chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.

- Giá bán xe vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực.

- Tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi thấp hơn mục tiêu đề ra, đồng thời thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực. Các sản phẩm đã được nội địa hóa mang hàm lượng công nghệ rất thấp.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại

- Quy mô thị trường ô tô Việt Nam còn quá nhỏ, trong khi ngành công nghiệp ô tô phát triển dựa vào lợi thế quy mô; Số lượng doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô quá nhiều so với quy mô thị trường.

- GDP bình quân đầu người giai đoạn vừa qua chưa đủ để đa số người dân có thể sở hữu ô tô.

- Năng lực công nghiệp trong nước (đặc biệt là ngành công nghiệp hỗ trợ) chưa phát triển khiến các doanh nghiệp khó có thể tăng cường tỷ lệ nội địa hoá để cắt giảm chi phí sản xuất.

- Các loại thuế, phí đối với sản phẩm ô tô chưa thực sự hợp lý, chưa tạo thuận lợi cho đa số người dân sở hữu ô tô.

- Các chính sách liên quan đến ngành chậm ban hành so với các nước trong khu vực làm mất cơ hội thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, chính sách trong nước chưa ổn định và đồng bộ, do đó chưa tạo được bước đột phá cho việc phát triển ngành.

3. Phương hướng phát triển

3.1. Lĩnh vực cơ khí nói chung:

Xây dựng Luật Phát triển công nghiệp, trong đó tích hợp chính sách phát triển các ngành cơ khí trọng điểm, chú trọng các ngành ô tô; chế tạo thiết bị điện và năng lượng mới, tập trung vào:

- Các giải pháp để tạo thị trường, tạo các đơn hàng cho các doanh nghiệp cơ khí nội địa theo hướng có quy định kèm theo chế tài chặt chẽ việc sử dụng nhà thầu trong nước đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư công, đặc biệt là trong các lĩnh vực hạ tầng, năng lượng, mua sắm Chính phủ...

- Các biện pháp ưu đãi và hỗ trợ để thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm.

- Thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành.

3.2. Lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô:

- Phối hợp với các Bộ ngành trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách mới tập trung hỗ trợ để thúc đẩy nhanh các dự án lớn về sản xuất, lắp ráp ô tô của các doanh nghiệp lớn, thu hút đầu tư từ các Tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án có quy mô lớn có kèm theo chuyển giao và làm chủ công nghệ tại Việt Nam.

- Phối hợp với Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam nghiên cứu xu hướng phát triển xe điện hóa trên thế giới, kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực cũng như những yếu tố tác động đến sự phát triển của xe điện hóa tại Việt Nam, từ đó tham mưu, đề xuất với Lãnh đạo Bộ Công Thương lộ trình cũng như các chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của xe điện hóa tại Việt Nam, phù hợp với định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tại Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị và Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 được phê duyệt tại Quyết định số 1168/QĐ-TTg ngày 16/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ cũng như góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải CO2 theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.

- Phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu sửa đổi áp dụng mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống theo hướng không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với phần giá trị tạo ra trong nước, với thời hạn của chính sách là từ 5-10 năm.

- Phát triển công nghiệp hỗ trợ để nâng cao giá trị gia tăng ngành công nghiệp ô tô.

- Hỗ trợ để thúc đẩy các dự án sản xuất, lắp ráp ô tô quy mô lớn trong thời gian tới nhằm gia tăng sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước./.

Ngô Mai Hương

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT