BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Mục tiêu và giải pháp phát triển ngành Công Thương năm 2023

06/10/2022

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, tình hình phát triển Công nghiệp và Thương mại năm 2023 tiếp tục diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có những chuyển biến lớn và khó lường với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, có tác động lớn đến phát triển ngành Công Thương Việt Nam.

Bối cảnh thế giới: Lạm phát ở nhiều quốc gia có thể ảnh hưởng đến phục hồi kinh tế và dự báo khả năng suy thoái toàn cầu sẽ xảy ra vào năm 2023 do rủi ro tăng. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 cũng được IMF hạ dự báo giảm từ mức 3,6% đưa ra hồi tháng 4/2022 xuống còn 2,9% do tác động của chính sách tiền tệ bị thắt chặt. Những xu hướng này sẽ làm giảm sức cầu hàng hóa và ảnh hưởng đến đầu tư mới, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu của các nước, trong đó có Việt Nam. Việc gián đoạn chuỗi cung ứng được dự báo sẽ còn tiếp diễn, làm giảm đà phục hồi các hoạt động kinh tế - đầu tư - thương mại hậu Covid-19. Sau thời gian dài bùng phát, trở thành đại dịch toàn cầu, tính chất, đặc điểm của dịch Covid-19 đã cơ bản được thế giới nhận diện và từng bước thích ứng với phương châm “sống chung với Covid-19”. Tuy nhiên, tại nhiều nước, nguy cơ bùng phát từ các làn sóng dịch mới tiếp tục thách thức chính sách phòng chống dịch và nỗ lực phục hồi nền kinh tế, nhất là tình trạng gián đoạn hoạt động sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất. Giá hàng hóa thiết yếu mặc dù có dấu hiệu giảm nhưng vẫn ở mức cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đà phục hồi tăng trưởng kinh tế toàn cầu, tạo ra những khó khăn cho kinh tế và thương mại toàn cầu nói chung, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Xung đột thương mại, căng thẳng địa chính trị có thể tiếp tục ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và hoạt động thương mại với một số thị trường, mà trực tiếp là thị trường tài chính và thị trường năng lượng, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm nguồn cung các yếu tố đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất (cả về giá cả lẫn số lượng hàng hóa nhập khẩu phục vụ sản xuất)... Đồng thời, căng thẳng, xung đột giữa Nga và Ukraine và các lệnh trừng phạt của các quốc gia, tổ chức với Nga cũng có thể tiếp tục tạo ra những khó khăn cho kinh tế và thương mại toàn cầu nói chung, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Cùng với quá trình hội nhập sâu rộng, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam đang khai thác có hiệu quả các Hiệp định FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu của nước ta đã và sẽ tiếp tục gia tăng, đặt ra nhiều cơ hội. Tuy nhiên, bối cảnh khu vực và quốc tế đang có sự biến chuyển, chính sách của các nước lớn cũng đang có sự thay đổi nhanh chóng, các FTA có hiệu lực đi liền với xu hướng gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan tại nhiều khu vực. Việc điều chỉnh chính sách thương mại của các nước với 3 động thái chủ yếu bao gồm: Động thái chính sách liên quan đến khủng hoảng Nga - Ucraina; Nâng cấp công cụ phòng vệ thương mại, kể cả tăng cường điều tra chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm soát tiếp cận thị trường; Thúc đẩy khuôn khổ hợp tác, tăng cường cạnh tranh, phục hồi chuỗi cung ứng … cũng có tác động đến sản xuất và thương mại toàn cầu.

Chuyển dịch kinh tế theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế phát thải carbon thấp đang định hình lại các hình thức, loại hình dự án FDI trên toàn cầu (hạn chế tìm kiếm các dự án FDI với mục đích tận dụng chính sách vào bảo vệ môi trường mở hơn tại các nước đang phát triển). Đồng thời, việc các nước đang tiến tới áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu có thể ảnh hưởng nhất định đến dòng vốn có thể ảnh hưởng nhất định đến dòng vốn đầu tư trực tiếp toàn cầu và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của mỗi nước.

Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang chuyển đổi cấu trúc của nền kinh tế thế giới, hiện bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới sáng tạo đã mang đến cơ hội cho các nước đang phát triển như Việt Nam đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ để thực hiện công nghiệp hóa đất nước và bắt kịp các nước phát triển; nhưng cũng phải đối mặt với các thách thức rất lớn với mô hình tăng trưởng hiện đang phụ thuộc nhiều vào lợi thế nguồn nhân lực giá rẻ khi lợi thế này đang bị cạnh tranh lớn bởi máy móc và tự động hóa, xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến đang phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI…

Bối cảnh trong nước: Đầu tư công sẽ là động lực tăng trưởng chính của Việt Nam khi  thực hiện thành công Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế 2022-2023 với giải ngân đầu tư công cải thiện mạnh, GDP Việt Nam có thể tăng trên 7% trong năm 2023. Đây là sẽ động lực chính để phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại của nước ta trong năm 2023. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường, thể hiện qua việc tham gia và triển khai các cam kết kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội đối với sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại của nước ta, tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng hóa của Việt Nam thâm nhập vào các thị trường, đối tác với thuế quan ưu đãi, thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Đặc biệt, Cách mạng công nghiệp 4.0 tiếp tục phát triển mạnh mẽ, cùng với những nỗ lực từ phía Chính phủ trong tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, xây dựng Chính phủ điện tử, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng..., sẽ là những yếu tố thuận lợi đối với sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại trong năm 2023.

Mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức song nước ta cũng bước vào giai đoạn mới với nhiều thuận lợi, như: thế và lực của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn nhiều, quy mô và tiềm lực kinh tế được nâng cao, kết quả ban đầu của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế tạo ra những chuyển biến mới đối với sự phát triển. Sự ổn định an ninh chính trị - xã hội là nền tảng vững chắc đảm bảo môi trường đầu tư ổn định; vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới ngày càng được đánh giá cao. Nước ta tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Các định hướng phát triển chính của nền kinh tế là: tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh; thực hiện các đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là cải cách hành chính và tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng; phát triển nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là giao thông và hạ tầng đô thị.

Kinh tế số, thương mại điện tử tiếp tục được quan tâm hỗ trợ, thúc đẩy và được ứng dụng rộng rãi trong doanh nghiệp và cộng đồng, tạo động lực mới mạnh mẽ hơn thúc đẩy xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nông sản, thực phẩm. Công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước.

Tuy nhiên, nền kinh tế trong nước vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức: quy mô kinh tế còn khiêm tốn, độ mở kinh tế lớn, nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục chịu tác động nhiều chiều từ bên ngoài. Năng lực tiếp cận nền kinh tế số, xã hội số còn hạn chế. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế thế giới có khả năng chậm hơn ảnh hưởng tới tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống, xã hội của nước ta…là những thách thức mà Việt Nam phải vượt qua.

 Việt Nam phải đối mặt với nhiều rủi ro như: Xu hướng gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan tại nhiều khu vực thị trường lớn, đặc biệt là các biện pháp phòng vệ thương mại; Diễn biến giá cả hàng hóa toàn cầu trở nên khó dự đoán; Nguy cơ lạm phát, rủi ro tài chính, tiền tệ gia tăng,…

Việt Nam là nền kinh tế có độ mở cao, nên tiếp tục chịu ảnh hưởng nhiều chiều từ những biến động của kinh tế thế giới. Nhiều ngành hàng dựa vào nguyên liệu nhập khẩu nên sẽ chịu tác động của việc giá cả hàng hóa cơ bản, nguyên nhiên vật liệu thế giới tăng, giá cước vận tải chưa có dấu hiệu giảm, vẫn ở mức cao… khiến chi phí đầu vào sản xuất trong nước tăng, tạo áp lực lạm phát.

I. Mục tiêu phát triển Công nghiệp và Thương mại trong năm 2023

1. Mục tiêu tổng quát

Thực hiện hiệu quả, thực chất hơn các đột phá chiến lược, cơ cấu lại các ngành lĩnh vực nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong toàn ngành. Đẩy mạnh cải cách thể chế và khơi thông nguồn lực; tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh; quyết liệt thực hiện các dự án quan trọng, công trình trọng điểm. Tận dụng triệt để, hiệu quả các Hiệp định FTA để mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu; đa dạng hóa đối tác, nguồn hàng, hạn chế sự phụ thuộc vào một số thị trường; thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng ngừa, nâng cao năng lực phòng vệ thương mại, cảnh báo sớm và giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế, chủ động bảo vệ lợi ích hợp pháp của các ngành sản xuất trong nước và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, người dân; Đẩy mạnh khai thác và phát triển thị trường nội địa và phát triển thương hiệu Việt; phát triển mạnh thương mại điện tử và sự gắn kết giữa thương mại điện tử với các loại hình hoạt động thương mại truyền thống. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt phòng chống tham nhũng; lãng phí; xây dựng bộ máy liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp.

2. Các mục tiêu cụ thể về phát triển công nghiệp và thương mại năm 2023

- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng khoảng từ 9,5-10% so với năm 2022.

- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 8% so với năm 2022.

- Cán cân thương mại duy trì xuất siêu

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 6.178,825 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 9% so với năm 2022.

- Cân đối về điện:

+ Tổng công suất nguồn điện (không bao gồm điện mặt trời mái nhà) năm 2022 dự kiến đạt 76.139 MW, tăng 3,99% so với năm 2022.

+ Tỷ lệ dự phòng công suất nguồn (không bao gồm điện năng lượng tái tạo) dự kiến đạt 18,13% - 20,9%.

+ Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống năm 2023 dự kiến đạt khoảng 300,03 -310,603 tỷ kWh, tăng 9,37% - 13,2% so với năm 2022.

II.  Các giải pháp chủ yếu thực hiện trong năm 2023

1. Về sản xuất công nghiệp

- Triển khai tích cực Đề án tái cơ cấu ngành công thương; tiếp tục phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu để từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới, tham gia sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp đối với các sản phẩm công nghiệp được sản xuất ở Việt Nam. Rà soát cơ chế, chính sách tác động đến công nghiệp của từng ngành, sản phẩm. Từng bước tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh, xây dựng hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm nhập khẩu để hỗ trợ sản phẩm trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa.

- Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cũng như Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng các chuỗi cung ứng mới.

- Tập trung điều chỉnh mô hình tăng trưởng công nghiệp từ chủ yếu dựa trên số lượng sang dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, đẩy mạnh phát triển các ngành và sản phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn; gắn kết sản xuất với phát triển dịch vụ công nghiệp.

- Tăng cường áp dụng hệ thống tổ chức sản xuất tiên tiến và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất công nghiệp, gắn sản xuất công nghiệp với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; sử dụng tài nguyên và năng lượng tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất công nghiệp.

- Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phục hồi sản xuất, chuỗi cung ứng, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng, linh kiện phục vụ cho sản xuất.

- Triển khai các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp theo các định hướng ưu tiên đã được xác lập, gồm:

+ Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng như cơ khí, thép, thiết bị điện…; một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu như dệt may, da giày, điện tử…; công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; công nghiệp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; công nghiệp phục vụ an ninh, quốc phòng; công nghiệp chế biến sâu đối với các sản phẩm nông lâm, thủy sản; công nghiệp khai khoáng theo hướng chỉ cho phép áp dụng các công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản hiện đại, tiết kiệm, bảo vệ môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội bền vững.

+ Phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng lựa chọn các nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ cần ưu tiên phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn phục vụ sản xuất công nghiệp để tăng cường khả năng tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.

- Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển công nghiệp; rà soát, cải cách cơ chế chính sách, quy hoạch phát triển công nghiệp; điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo lãnh thổ, đặc biệt là tăng cường liên kết giữa các địa phương trong phát triển công nghiệp, hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp theo lợi thế của các địa phương.

- Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp ưu tiên; đẩy nhanh ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số, phát triển sản xuất thông minh trong những ngành công nghiệp chủ lực, mũi nhọn và công nghiệp ưu tiên.

- Tăng cường công tác ứng dụng chuyển đổi số, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất công nghiệp.

2. Các giải pháp đối với hoạt động xuất nhập khẩu

- Tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh Covid -19, sự thay đổi trong chính sách thương mại của cả nước/đối tác lớn và trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia để tham mưu cho Chính phủ các giải pháp điều hành ứng phó kịp thời với các yếu tố bất lợi.

- Chú trọng công tác triển khai thực hiện các Hiệp định thương mại tự do, nhất là các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nắm được nội dung cam kết trong các FTA để vận dụng và phát huy có hiệu quả ưu đãi của Hiệp định, tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế thách thức từ những Hiệp định này.

- Tiếp tục đổi mới, tổ chức các chương trình XTTM, kết nối cung cầu cả trong và ngoài nước trên môi trường trực tuyến và dựa trên những nền tảng mới.  Tăng cường công tác xúc tiến thương mại cấp quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng nông sản; tổ chức kết nối các hoạt động kết nối cấp vùng miền nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hóa.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính. Trong đó, tập trung triển khai các thủ tục hành chính về lĩnh vực xuất nhập khẩu theo Cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN... để tạo thuận lợi cho Hiệp hội và doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.

- Tăng cường công tác thông tin dự báo tình hình thị trường hàng hóa trong nước và thế giới, chính sách, tập quán buôn bán của các thị trường để Chính phủ, các bộ, ngành, Hiệp hội và doanh nghiệp có phản ứng kịp thời, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường hiệu quả.

- Tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước phát triển để giảm sự phụ thuộc vào khu vực FDI trong sản xuất và xuất khẩu của nước ta.

- Theo dõi sát tình hình nhập khẩu, đề xuất triển khai các biện pháp quản lý nhập khẩu phù hợp với các cam kết quốc tế.

- Tiếp tục theo dõi sát tình hình xuất nhập khẩu, trao đổi mua bán hàng hoá tại các cửa khẩu biên giới; tăng cường công tác thông tin, định hướng doanh nghiệp chuyển nhanh, chuyển mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc sang hình thức chính ngạch bền vững; kêu gọi doanh nghiệp dịch vụ logistics hỗ trợ các doanh nghiệp nông, thủy sản và trái cây thông qua việc ưu tiên bảo quản các loại trái cây, giảm chi phí lưu kho, lưu bãi, giảm chi phí vận chuyển, bốc xếp hàng hóa,…

+ Phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và các đơn vị liên quan để triển khai công tác nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung 02 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc cũng như các văn bản pháp luật liên quan, đảm bảo bám sát hơn với tình hình và đòi hòi của thực tiễn, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc phát triển lành mạnh và bền vững.

+ Tiếp tục phối hợp để tăng cường công tác thông tin, định hướng doanh nghiệp chuyển nhanh, chuyển mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc sang hình thức chính ngạch bền vững; kêu gọi doanh nghiệp dịch vụ logistics hỗ trợ các doanh nghiệp nông, thủy sản và trái cây thông qua việc ưu tiên bảo quản các loại trái cây, giảm chi phí lưu kho, lưu bãi, giảm chi phí vận chuyển, bốc xếp hàng hóa./.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT