BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Sản xuất công nghiệp phục hồi mạnh mẽ trong 9 tháng đầu năm 2022

11/10/2022

Kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2022 của nước ta diễn ra trong bối cảnh triển vọng kinh tế thế giới trở nên khó khăn hơn khi xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na kéo dài; lạm phát duy trì ở mức cao, nhất là ở châu Âu và Mỹ; xu hướng tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khóa ở nhiều quốc gia; thời tiết diễn biến bất thường ở nhiều châu lục… Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ, ngành, địa phương quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Trên cơ sở đó, kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2022 của nước ta khởi sắc hầu hết các lĩnh vực. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã khôi phục mạnh mẽ và đạt mức tăng trưởng cao hơn trước khi dịch Covid-19 xảy ra.

1. Sản xuất công nghiệp phục hồi và tăng trưởng khá

Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2022 của Tổng cục thống kê, sản xuất công nghiệp quý III năm 2022 tăng trưởng khá do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và đang dần phục hồi, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 12,12% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 9 tháng năm 2022, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 9,63% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69%.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2022 ước tính tăng 9,63% so với cùng kỳ năm 2021 (quý I tăng 7,16%; quý II tăng 9,51%; quý III tăng 12,12%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69% (quý I tăng 7,85%; quý II tăng 11,07%; quý III tăng 13,02%), đóng góp 2,74 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,71%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,03%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 4,42%, đóng góp 0,15 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

+ Chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2022 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm 2021: Sản xuất đồ uống tăng 31,9%; sản xuất trang phục tăng 22,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 20,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 18,3%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 17,3%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 16,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 14,9%; sản xuất phương tiện vận tải khác và sản xuất sản phẩm thuốc lá cùng tăng 11,4%. Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành giảm: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 5,4%; sản xuất kim loại giảm 0,8%.

Bảng 1: Chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành lĩnh vực tăng/giảm 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ các năm trước đó

Đơn vị: %

2018

2019

2020

2021

2022

Sản xuất đồ uống

8,2

11,0

-6,2

-3,8

31,9

Sản xuất trang phục

10,9

8,4

-5,5

4,5

22,5

Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan

10,5

8,9

-4,1

4,8

20,4

Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu

25,2

-2,8

32,2

-20,6

18,3

Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu

2,4

12,4

-2,3

4,1

17,3

Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện

2,5

9,8

-5,6

3,2

16,4

Sản xuất thiết bị điện

7,5

10,4

0,4

-0,4

14,9

Sản xuất phương tiện vận tải khác

5,7

-5,8

-9,3

-2,7

11,4

Sản xuất sản phẩm thuốc lá

5,2

4,0

7,4

-3,2

11,4

Sản xuất kim loại

19,7

36,7

4,6

27,5

-0,8

Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic

3,4

15,0

3,9

-1,8

-5,4

Nguồn: gso.gov.vn

Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021 tăng ở 61 địa phương và giảm ở 02 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao như: Bắc Giang tăng 46,6%; Cần Thơ tăng 37,1%; Quảng Nam tăng 30,3%; Vĩnh Long tăng 30,7%; Đắk Lắk tăng 11,4%; Kiên Giang tăng 26,8%; Khánh Hòa tăng 26,8%; Bến Tre tăng 24,2%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Đắk Lắk tăng 44,4%; Lai Châu tăng 25,6%; Sơn La tăng 27,5% do thủy điện tăng cao.

Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chưa lấy lại đà tăng trưởng cao như thời điểm trước khi xảy ra dịch bệnh; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp hoặc giảm như: Lào Cai và Bà Rịa - Vũng Tàu cùng tăng 8,7%; Quảng Ngãi tăng 8%; Bắc Kạn tăng 6,9%; Ninh Bình tăng 3,7%; Hà Tĩnh giảm 11,5%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước giảm: Bình Thuận giảm 2%; Quảng Ninh giảm 3,7%; Cà Mau giảm 8,6%; Ninh Bình giảm 13,4%; Hà Tĩnh giảm 35,3%; Trà Vinh giảm 36,2%. Địa phương có ngành khai khoáng 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng thấp hoặc giảm: Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 3%; Lào Cai giảm 9,8%; Bình Định giảm 30,3%.

+ Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực 9 tháng năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm 2021: Bia tăng 35,8%; thủy hải sản chế biến tăng 20,4%; linh kiện điện thoại tăng 17,3%; ôtô tăng 16,5%; thép thanh, thép góc tăng 15,4%; quần áo mặc thường tăng 13,2%; thuốc lá điếu tăng 11,4%; giày, dép da tăng 10,2%; sơn hóa học tăng 10,1%; bột ngọt tăng 9,6%.

Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm 2021: Sắt, thép thô giảm 13,7%; điện thoại di động giảm 5,8%; phân hỗn hợp NPK giảm 4,1%; thức ăn cho thủy sản giảm 3,3%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 3,1%; khí hóa lỏng LPG giảm 2,5%; tivi các loại giảm 1,8%; dầu thô khai thác giảm 0,6%.

2. Các chỉ số năng lực ngành công nghiệp ổn định

+ Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9 năm 2022 tăng 2,3% so với tháng 8 và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 9 tháng năm 2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 tăng 2,8%).

+ Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2022 tăng 7,3% so với cùng thời điểm tháng 8 và tăng 13,4% so với cùng thời điểm năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 28,2%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm 2022 là 76,4% (bình quân 9 tháng năm 2021 là 81,1%).

+ Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2022 tăng 1,1% so với cùng thời điểm tháng 8 và tăng 21,8% so với cùng thời điểm năm 2021. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% và giảm 6,5%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,5% và tăng 17,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,4% và tăng 25,8%.

Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng 8 và tăng 2,5% so với cùng thời điểm năm 2021; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,2% và tăng 23,5%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và tăng 2,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,2% và tăng 5,5%

+ Số doanh nghiệp đăng ký mới hoặc giải thể có nhiều biến động. Tính chung 9 tháng năm 2022, cả nước có 112,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.272,3 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 758,1 nghìn lao động, tăng 31,9% về số doanh nghiệp, tăng 6,4% về vốn đăng ký và tăng 16,8% về số lao động so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, theo khu vực kinh tế, có 27,9 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm 2021.

Bảng 2: Doanh nghiệp thành lập mới và giải thể 9 tháng năm 2022 phân theo một số lĩnh vực hoạt động

Đơn vị: DN

 

Số lượng doanh nghiệp

Tốc độ tăng/giảm so với cùng kỳ năm 2021 (%)

Thành lập mới

Giải thể

Thành lập mới

Giải thể

Công nghiệp chế biến, chế tạo

14.391

1.635

30,5

11,0

Sản xuất phân phối, điện, nước, gas

817

345

-15,0

27,8

Nguồn: gso.gov.vn

Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2022 với 82,6% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý III/2022.

3. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vượt mức

Trong tháng 9 năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 58,74 tỷ USD, giảm 11% so với tháng 8 và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 9 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa vượt mức 500 tỷ USD, đạt 558,52 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó xuất khẩu tăng 17,3%; nhập khẩu tăng 13%. Cán cân thương mại hàng hóa 9 tháng năm 2022 ước tính xuất siêu 6,52 tỷ USD.

+ Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9 năm 2022 ước đạt 29,94 tỷ USD, giảm 14,3% so với tháng 8. Tính chung 9 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 282,52 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 73,22 tỷ USD, tăng 16,4%, chiếm 25,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 209,3 tỷ USD, tăng 17,6%, chiếm 74,1%.

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 9 tháng năm 2022, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,4%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021; nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%, giảm 0,1 điểm phần trăm; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 6,6%, giảm 0,6 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 3%, tăng 0,4 điểm phần trăm.

Bảng 3: Trị giá một số mặt hàng xuất khẩu 9 tháng năm 2022

Đơn vị: (Triệu USD)

Các mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD

Ước tính 9 tháng năm 2022

Tốc độ tăng/giảm 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021(%)

Điện thoại và linh kiện

45.396

10,7

Điện tử, máy tính và linh kiện

41.511

13,3

Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

34.063

29,8

Dệt, may

29.135

24,3

Giày dép

18.169

36,6

Gỗ và sản phẩm gỗ

12.257

10,0

Nguồn: gso.gov.vn

+ Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 9/2022 ước đạt 28,8 tỷ USD, giảm 7,3% so với tháng 8. Tính chung 9 tháng năm 2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 276 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 96,11 tỷ USD, tăng 13,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 179,89 tỷ USD, tăng 12,7%.

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 9 tháng năm 2022, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,9%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 44,6%, giảm 1,3 điểm phần trăm; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 49,2%, tăng 1,4 điểm phần trăm. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,1%, giảm 0,1 điểm phần trăm.

Hình 4: Trị giá một số mặt hàng nhập khẩu 9 tháng năm 2022

Đơn vị: Triệu USD

Các mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD

Ước tính 9 tháng năm 2022

Tốc độ tăng/giảm 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021 (%)

Điện tử, máy tính và linh kiện

63.937

18,5

Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

34.434

-1,1

Điện thoại và linh kiện

15.666

5,5

Nguồn: gso.gov.vn

Hoạt động sản xuất, kinh doanh tuy đã phục hồi nhưng còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu, vật tư đầu vào, chi phí sản xuất tăng cao; tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ ở một số địa phương. Thị trường cũng xuất hiện nhiều bất lợi như tác động của thị trường xăng dầu thế giới cùng nhiều yếu tố địa chính trị khác sẽ tạo áp lực lên lạm phát, giá cả hàng hóa trong nước.

Như vậy, về tổng thể nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng cao theo chu kỳ xuất nhập khẩu hàng hóa và hiệu quả từ các hiệp định thương mại tự do ngày càng được thực thi toàn diện và hiệu quả hơn. Dịch COVID -19 cơ bản được khống chế trên phạm vi toàn cầu sẽ tạo thuận lợi cho thúc đẩy phục hồi kinh tế, gia tăng xuất nhập khẩu hàng hóa, trong đó có hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Cùng với đó, tiêu dùng hàng hóa ở những thị trường là đối tác lớn của Việt Nam tuy có chậm lại nhưng chưa giảm mạnh sẽ tác động thuận lợi đến sản xuất, xuất nhập khẩu và tiêu dùng trong thời gian tới./.

Lê Anh Tú

Phòng Thông tin, thư viện & Xúc tiến thương mại - VIOIT