BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Huy động nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển ngành Công Thương góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị

09/07/2025

Nguyễn Thị Quỳnh Hoa

Chi bộ Thị trường

Đảng bộ Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

I. Phát triển khoa học công nghệ và huy động nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển ngành Công Thương

1.1. Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát huy nguồn lực các nhà khoa học phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển khoa học và công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Nhận thức rõ vai trò của các nhà khoa học, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo, tạo mọi điều kiện tốt nhất trong khả năng có thể để thúc đẩy giải phóng năng lực nghiên cứu, sáng tạo và khuyến khích mọi thể nghiệm, tìm tòi của đội ngũ các nhà khoa học, trí thức ở trong và ngoài nước, trên tinh thần cùng chia sẻ và nhân lên tình yêu, niềm cảm hứng, khát vọng và quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng ta sớm có chủ trương đúng đắn về phát triển đội ngũ các nhà khoa học, nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là từ Đại hội XI trở lại đây. Cụ thể:

Đại hội XII (2016), lần đầu tiên khoa học, công nghệ được đưa thành một mục riêng trong Văn kiện Đại hội (mục VI- Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ), không gộp vào với các vấn đề khác (giáo dục đào tạo, văn hóa, môi trường) như trong các Văn kiện Đại hội trước. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”. Khi thêm vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trước đó, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Mọi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội phải dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ; khoa học, công nghệ phải là động lực chủ yếu, đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước.

Trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, đổi mới sáng tạo đã trở thành động lực chủ yếu và là chiến lược phát triển quan trọng của các quốc gia. Để hòa nhịp với xu thế phát triển chung của nhân loại, Việt Nam cũng đã tạo lập và triển khai thực hiện các hoạt động theo chiến lược đổi mới sáng tạo.

Năm 2016, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề cập đến khái niệm “đổi mới sáng tạo” và khẳng định đổi mới sáng tạo cùng với khoa học, công nghệ trở thành động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Đại hội xác định: “Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”2, do đó cần phải: “Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động”, “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ. Tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức”.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động ngày càng mạnh mẽ đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Đảng xác định đây là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; là giải pháp đột phá và là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

Nghị quyết 52-NQ/TW đã đề cập đến ba trụ cột chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết chỉ rõ: “Nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia”. Do đó, cần phải tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để “phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái”. Để phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia, Đảng chủ trương “Xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; “Áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt, có tính đột phá đối với các trung tâm đổi mới sáng tạo”; đồng thời, “Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia”.

Đại hội XIII (2021), Đảng xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 nhấn mạnh: Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để tăng trưởng kinh tế; trong đó, cần phải tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có sự bứt phá, vươn lên trong một số ngành, lĩnh vực.

Đặc biệt, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng, vấn đề chuyển đổi số được đề cập đến nhiều lần, trong đó nhấn mạnh “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Chuyển đổi số trở thành động lực quyết định tăng năng suất lao động, lợi thế cạnh tranh trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Đảng tiếp tục ban hành các chủ trương, chính sách thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, với quan điểm chỉ đạo: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới”.

Lần đầu tiên, tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, khoa học, công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số đã được đặt lên ở vị trí là yếu tố quyết định… là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc… là đột phá quan trọng hàng đầu”, với những mục tiêu quan trọng cùng các giải pháp rất quyết liệt. Trong đó, mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có “tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ quốc tế. Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế.

Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng, ban hành cơ chế đặc biệt về nhập tịch, sở hữu nhà, đất, thu nhập, môi trường làm việc nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các tổng công trình sư trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ và đào tạo nguồn nhân lực”.

Nhìn chung, được sự quan tâm, chăm lo, tạo mọi điều kiện tốt nhất của Đảng, Nhà nước, sự phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam trong thời gian qua đã gặt hái được rất nhiều thành tựu quan trọng. Trong giai đoạn 2015-2021, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu, phát triển (R&D) tăng gần gấp đôi, từ 18.496 tỷ đồng (năm 2015) lên 36.066 tỷ đồng (năm 2021). Cơ cấu nhân lực nghiên cứu và phát triển của Việt Nam đã có sự gia tăng tương đối ổn định, đặc biệt, tỷ lệ nhà nghiên cứu có trình độ tiến sĩ tăng nhanh, từ khoảng 11% (năm 2015) lên 15,62% (năm 2021). Số lượng nhà nghiên cứu (FTE) tăng từ 62.886 (năm 2015) lên 75.665 (năm 2021).

Tổng số bài báo của Việt Nam công bố trên các tạp chí khoa học, công nghệ quốc tế giai đoạn 2018-2023 là 96.211 bài (theo cơ sở dữ liệu Scopus). Đặc biệt, số lượng bài báo tăng gấp 2,2 lần, từ 8.874 bài năm 2018 lên 19.406 bài năm 2023, với tốc độ tăng trung bình cả giai đoạn là 20,8%; trong đó, kỹ thuật và khoa học máy tính là 2 lĩnh vực có số lượng công bố quốc tế chiếm ưu thế ở Việt Nam, chiếm 50% tổng số công bố.

Thị trường khoa học, công nghệ ở Việt Nam đã dần hình thành, phát triển và đạt được một số thành tựu đáng kể. Việc chuyển giao và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, với giá trị xuất khẩu đạt 53,2 tỷ USD vào năm 2022.

1.2. Thu hút nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển ngành Công Thương

1.2.1. Khái quát về phát triển khoa học công nghệ của ngành Công Thương

Trong 4 trụ cột của đất nước là nông - công - thương - trí, bao gồm nhiều ngành và lĩnh vực rộng lớn, rất quan trọng, phức tạp thì Bộ Công Thương quản lý đến 2 trụ cột, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, với đóng góp khoảng gần 80% GDP, với trên 70% thu ngân sách Nhà nước. Có thể nói, ngành Công Thương với vị trí đầu tàu, là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đi đầu trong công tác hội nhập kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Hiện nay, Bộ Công Thương quản lý mạng lưới các viện nghiên cứu gồm: 11 Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ (09 nghiên cứu chuyên ngành, 02 nghiên cứu chiến lược, chính sách) và một số tổ chức KH&CN tại các tập đoàn kinh tế, trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ.

Tổng số cán bộ, viên chức đang làm việc tại 11 viện nghiên cứu của Bộ Công Thương hiện nay vào khoảng 1.553 người; trong đó, số lao động có trình độ từ đại học trở lên là 1.277 người, chiếm tỷ lệ 82,2%, gồm: 83 tiến sĩ (chiếm 5,3%), 417 thạc sĩ (chiếm 26,9%), 777 kỹ sư/cử nhân (chiếm 50,03%). Số cán bộ có học hàm giáo sư/ phó giáo sư là 12 người, chiếm tỷ lệ 0,77%. Sau khi chuyển đổi mô hình hoạt động và sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, số lượng cán bộ, viên chức công tác tại các viện nghiên cứu thuộc Bộ Công Thương có xu hướng giảm, bộ máy quản lý tinh gọn hơn và số lượng cán bộ có học vị trên đại học ở các phòng chuyên môn tăng so với trước đây. Ngoài ra, cơ cấu về độ tuổi của các cán bộ nghiên cứu đã có sự dịch chuyển rõ rệt theo hướng tăng tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học ở độ tuổi từ 30 đến 50 so với những năm trước đây…

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở các viện nghiên cứu ngành Công Thương được đào tạo cơ bản, nhiều người được đào tạo ở các nước phát triển, đáp ứng yêu cầu trong hoạt động nghiên cứu triển khai của ngành giai đoạn hiện nay.

Xác định rõ vai trò của phát triển khoa học công nghệ đối với ngành Công Thương, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã triển khai đồng bộ các nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp quốc gia với tổng số khoảng trên 3.000 nhiệm vụ thuộc các lĩnh vực khác nhau, từ nghiên cứu phục vụ xây dựng chiến lược, chính sách phát triển lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại đến nghiên cứu công nghệ trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, bán dẫn, khai thác khoáng sản, luyện kim, hóa chất, năng lượng, công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm... Kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng trong công tác xây dựng, hoạch định chính sách quản lý của Bộ; ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển ngành Công Thương, nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Trong giai đoạn từ 2016 đến nay, Bộ Công Thương được giao chủ trì rất nhiều chương trình/đề án khoa học và công nghệ các cấp. Các nhiệm vụ trong giai đoạn này tập trung vào nghiên cứu, ứng dụng hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, quản trị sản xuất, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm, hàng hóa thương hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành thực hiện hoạt động KH&CN, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua việc đầu tư nhiều hơn cho ứng dụng, đổi mới công nghệ. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị trong giai đoạn vừa qua đã có sự cải thiện đáng kể với hơn 80% doanh nghiệp lớn và trên 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thực hiện đổi mới sản phẩm hoặc quy trình. Một số doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn đã thành lập các trung tâm nghiên cứu, phát triển công nghệ độc lập để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của nội tại doanh nghiệp. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp từng bước được nâng lên; một số ngành, lĩnh vực đang tiệm cận với trình độ công nghệ của khu vực và thế giới như: Lĩnh vực thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí, năng lượng - điện; không ít các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đang tiên phong trong xu hướng ứng dụng công nghệ mới và thực hiện chuyển đổi số với hiệu quả hết sức tích cực, mang đến diện mạo, năng lực mới cho doanh nghiệp.

Việc nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu ngành Công Thương theo hướng hiện đại, từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu.

Sự phát triển bền vững của ngành Công Thương có sự đóng góp rất lớn của hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, cụ thể:

Phát triển nền kinh tế theo hướng trở thành một nước công nghiệp ngày càng hiện đại luôn là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

+ Sản xuất công nghiệp, năng lượng đã giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, thâm dụng vốn và lao động; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. (i) Phát triển công nghiệp, năng lượng đã trở thành thước đo chính đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu ở mỗi giai đoạn phát triển đất nước, qua đó, Đảng ta một lần nữa khẳng định vai trò chủ đạo của công nghiệp là lực lượng sản xuất trực tiếp, động lực chính, đầu tàu để phát triển nền kinh tế và có tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; (ii) Đã phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu...; phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao…; công nghiệp sản xuất robot, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa…; công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu...

+ Công nghiệp, năng lượng và thương mại được cơ cấu lại theo hướng nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, khai thác triệt để cơ hội của cuộc CMCN 4.0 và lợi thế về điều kiện tự nhiên, lao động. Phát triển các ngành công nghiệp, năng lượng không chỉ giúp Việt Nam chủ động trong công cuộc CNH, HĐH đất nước mà còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của tổ quốc.

+ Thị trường trong nước được củng cố và giữ vững; thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo hệ thống phân phối, tạo xung lực mới cho tăng trưởng. Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo hệ thống phân phối, tạo xung lực mới cho tăng trưởng. Phát triển thị trường trong nước góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội, ổn định và không ngừng nâng cao đời sống, đáp ứng nhu cầu vật chất ngày càng tăng của xã hôi, qua đó góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước.

+ Tăng cường đàm phán, thực thi có hiệu quả hội nhập quốc tế, triển khai các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế, từ đó nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời, góp phần quan trọng vào thúc đẩy xuất nhập khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, chuyển dịch thị trường xuất nhập khẩu, không chỉ thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, mà còn góp phần tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư…, nâng cao vị thế trong quan hệ chính trị, ngoại giao của Việt Nam… Nhiều mặt hàng chế biến, chế tạo với hàm lượng công nghệ và chất xám cao có quy mô xuất khẩu lớn, có giá trị gia tăng cao và chiếm vị trí cao trong xếp hạng thành tích xuất khẩu của thế giới.

1.2.2. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ và thu hút các nhà khoa học trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển ngành Công Thương

Quán triệt, nhận thức sâu sắc chủ trương, đường lối chiến lược này của Đảng, dưới sự chỉ đạo sát sao, hiệu quả của Chính phủ, toàn ngành Công Thương trong những giai đoạn phát triển vừa qua luôn xác định công tác phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là yêu cầu và đòi hỏi tiên quyết, tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Xác định rõ vai trò của các nhà khoa học đối với xây dựng, hoạch định chính sách phát triển và quản lý nhà nước của ngành, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm tăng cường thu hút các nhà khoa học trong và ngoài nước như: xây dựng cơ chế thu hút các nhà khoa học thông qua các Nghị quyết của Đảng bộ Bộ; triển khai nhiều chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ cho những người làm khoa học, đi đôi với việc tích cực tìm kiếm, phát hiện và thu hút các nhà khoa học; triển khai nhiều nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp quốc gia; đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học, công nghệ, tạo điều kiện cho đội ngũ các nhà khoa học nghiên cứu, sáng tạo...

Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 28/2/2023 nhấn mạnh, tái cơ cấu để thực hiện phát triển nhanh và bền vững ngành Công Thương trên cơ sở phát huy vai trò động lực của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành. Quan điểm này đã khẳng định mạnh mẽ việc gắn bó mật thiết và trực tiếp của khoa học và công nghệ phục vụ cho quá trình đổi mới ngành Công Thương.

Đề án đã đặt ra nhiệm vụ về tái cơ cấu ngành công nghiệp, trong đó xác định:

+ Kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và lợi thế thương mại để tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, giá trị gia tăng nội địa của sản phẩm.

+ Chú trọng nội địa hóa chuỗi cung ứng các ngành công nghiệp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tăng cường tính tự chủ, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

+ Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp từ thâm dụng tài nguyên, lao động sang các ngành thâm dụng vốn và công nghệ, các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp các-bon thấp. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%.

Đề án cũng nêu rõ việc ưu tiên phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đi tắt, đón đầu trong phát triển một số ngành, sản phẩm, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao. Tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng tạo, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao, trọng tâm "Make in Viet Nam", sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, tích hợp thành sản phẩm thương mại tại Việt Nam. Tăng cường làm chủ công nghệ cốt lõi, tạo dựng thương hiệu Việt Nam, sử dụng công nghệ Việt Nam và gắn kết hiệu quả với mạng lưới chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài.

Đặc biệt, Quyết định số 2795/QĐ-BCT ngày 30/10/2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc ban hành Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển ngành Công Thương đến năm 2030 tiếp tục thể hiện rõ nét quan điểm, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là nền tảng quan trọng và khâu đột phá trong chính sách công nghiệp và thương mại để đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh ngành Công Thương, tự chủ về công nghệ công nghiệp, đặc biệt là các công nghệ then chốt, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngày 09/01/2024, Bộ trưởng Bộ Công thương đã ký Quyết định số 51/QĐ-BCT ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược, trong đó phân công 10 nhiệm vụ chính bao gồm: (i) Đổi mới tư duy, nâng cao trách nhiệm trong thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; (ii) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách để thu hút, trọng dụng nhân tài; (iii) Khuyến khích và phát hiện, tiến cử nhân tài; (iv) Nâng cao chất lượng, tạo đột phá trong đào tạo, bồi dưỡng nhân tài; (v) Nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp trong việc phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài; (vi) Tăng cường hợp tác, giao lưu, hội nhập quốc tế về nhân tài; (vii) Xây dựng môi trường làm việc công bằng, chuyên nghiệp; môi trường sống văn minh, hiện đại; (viii) Tổ chức thông tin, tuyên truyền về thu hút, trọng dụng nhân tài; (ix) Khuyến khích tổ chức, cá nhân và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện chính sách nhân tài và xử lý nghiêm, kịp thời vi phạm chính sách nhân tài và (x) Thu hút, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư cho thu hút và trọng dụng nhân tài.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Công Thương cũng đã ban hành Quyết định số 1439/QĐ-BCT ngày 26 tháng 5 năm 2025 về Kế hoạch hành động của Bộ Công Thương thực hiện Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung, cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nội dung Khoản 4 của Mục II (Định hướng và giải pháp) cũng có nêu: “Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.

Nhìn chung, những cơ chế, chính sách của Bộ Công Thương đã giúp thu hút được đội ngũ các nhà khoa học, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành Công Thương nói riêng và sự nghiệp phát triển đất nước nói chung. Đội ngũ các nhà khoa học, các cán bộ nghiên cứu ở các viện nghiên cứu trong ngành Công Thương được đào tạo cơ bản, nhiều người được đào tạo ở các nước phát triển, đáp ứng yêu cầu trong hoạt động nghiên cứu triển khai của ngành giai đoạn hiện nay. Đóng góp của các nhà khoa học đối với xây dựng, hoạch định chính sách phát triển và quản lý nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu, cụ thể như sau:

Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học giúp cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển bền vững ngành Công Thương; giúp phát hiện ra các vấn đề chính sách và đề xuất chủ trương chính sách mới cho sự phát triển của ngành, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh tranh; bảo đảm tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Thứ hai, nghiên cứu khoa học giúp thu thập, phân tích và xử lý thông tin trong quá trình hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và thành tựu công nghệ của cuộc CMCN 4.0.

Thứ ba, nghiên cứu khoa học giúp các nhà hoạch định chính sách của ngành Công Thương đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề một cách kịp thời và hiệu quả, cơ cấu lại các ngành công nghiệp và thương mại, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu và hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ tư, nghiên cứu khoa học trong hoạch định chính sách giúp thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực công nghiệp và thương mại một cách dân chủ, từ đó, định hướng và thiết kế các hành động chính sách để đạt mục tiêu giải quyết vấn đề chính sách trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Nghiên cứu khoa học giúp các nhà hoạch định chính sách đánh giá khách quan tác động chính sách, xây dựng nền công nghiệp và thương mại quốc gia vững mạnh.

Thứ năm, các hoạt động nghiên cứu phát triển, ứng dụng đã có những bước điều chỉnh nhanh chóng về định hướng cũng như cách thức tổ chức thực hiện, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại; hướng tới tiếp thu và làm chủ các công nghệ tiên tiến của cuộc CMCN 4.0.

Thứ sáu, lĩnh vực nghiên cứu chiến lược, chính sách đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học và thực tiễn quan trọng phục vụ việc xây dựng và thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình, chính sách tái cấu trúc và phát triển bền vững các ngành, lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại; nâng cao năng lực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương.

Thứ bảy, công tác quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN của Bộ Công Thương đã từng bước được đổi mới, hoàn thiện theo hướng thực chất, hiệu quả; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình tổ chức, giám sát thực hiện; tạo môi trường thuận lợi và cạnh tranh lành mạnh trong nghiên cứu sáng tạo.

Tuy nhiên, khi triển khai, vẫn bộc lộ một số hạn chế trong chính sách, giải pháp, cơ chế đãi ngộ, do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, dẫn đến việc chưa phát huy hết tiềm lực của đội ngũ các nhà khoa học, đội ngũ trí thức. Cụ thể:

Thứ nhất, tiềm lực, cũng như vị trí, vai trò của các nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài có lúc, có nơi chưa được xem xét và đánh giá xứng tầm, do đó chưa có những cơ chế, chính sách thực thi cụ thể và hiệu quả nhằm khuyến khích họ đóng góp cho công cuộc xây dựng và phát triển ngành Công Thương. Nhận thức cũng như việc triển khai các chính sách phát hiện, thu hút và trọng dụng các nhà khoa học chưa sâu sát, chưa thống nhất, đồng bộ, chưa thực sự được chú trọng.

Thứ hai, đối với người làm công tác cán bộ, việc triển khai cơ chế phát hiện, thu hút và trọng dụng các nhà khoa học, nhân tài cũng đang làm nảy sinh nhiều vấn đề. Người đứng đầu Bộ chưa mạnh dạn giao nhiệm vụ để các nhà khoa học có năng lực, trình độ chủ động thực hiện; chưa phát huy sự sáng tạo và ý chí phấn đấu vươn lên của các nhà khoa học trẻ, có tài năng. Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát, mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chỗ, đúng lúc”.

Thứ ba, công tác tìm kiếm, phát hiện, thu hút, trọng dụng các nhà khoa học là một trong những nội dung quan trọng được Đảng ta đặt ra qua nhiều nhiệm kỳ; tuy nhiên, đến nay vẫn chưa hình thành được cơ chế, chính sách cụ thể. Các quy định của pháp luật chưa bao quát hết các nội dung cần thể chế hóa, từ những khái niệm cơ bản nhất như “thế nào là nhân tài?” đến các tiêu chí, quy định cụ thể về cơ chế phát hiện, thu hút nhân tài, do vậy gây khó khăn trong việc xây dựng cơ chế riêng của Bộ vì vướng mắc với các quy định hiện hành.

Thứ tư, hạn chế về nguồn lực trong việc đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu…, dẫn đến chưa đáp ứng môi trường làm việc của đội ngũ các nhà trí thức, nhà khoa học.

Thứ năm, chính sách đầu tư cho con người chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cơ chế tài chính, quản lý nhà nước về hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ theo quy định của pháp luật nói chung và của Bộ Công Thương nói riêng còn nhiều bất cập... Ðây là những rào cản dẫn đến không thu hút được nhiều nhà khoa học giỏi, ngược lại làm chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư ngày càng nhiều hơn.

Thứ sáu, chính sách trọng dụng, chế độ đãi ngộ nhân tài hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa có phương án giải quyết thực sự đồng bộ. Chính sách đãi ngộ về vật chất đối với nhân tài còn thấp so với mặt bằng xã hội hiện nay (Với mức lương cơ sở nhân với hệ số của bảng lương chuyên gia cao cấp, các chuyên gia, nhà khoa học chỉ nhận được từ 13 triệu đến 14 triệu đồng/tháng, chỉ tương đương công nhân làm lâu năm tại các doanh nghiệp nước ngoài). Chế độ tiền lương cho nhân tài vẫn nằm trong hệ thống thang, bảng lương chung, chưa thể hiện được sự “ưu đãi” xứng tầm năng lực, chưa thực sự dựa trên hiệu quả công việc của nhân tài. Chế độ đãi ngộ để thu hút và giữ chân các nhà khoa học của Bộ hiện nay chưa phù hợp thực tiễn, không tạo được động lực cho nhà khoa học yên tâm làm việc và cống hiến.

Thứ bảy, còn có không ít nhà khoa học vẫn mang tâm lý “an phận thủ thường”, “bàng quan thế sự”; cũng có không ít nhà khoa học trải qua quá trình đào tạo, học tập ở nước ngoài, chịu sự ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng, văn hóa, lối sống phương Tây, có xu hướng “hướng ngoại”, “sính ngoại” thay vì gắn bó, cống hiến tài năng cho đất nước nói chung và ngành Công Thương nói riêng.

Để đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cơ cấu lại ngành Công Thương, cần quan tâm phát triển, nâng cao tiềm lực, trình độ khoa học - công nghệ và đội ngũ các nhà khoa học trong và ngoài nước, để đội ngũ các nhà khoa học thực sự trở thành nguồn lực, động lực, là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển đất nước nói chung, ngành Công Thương nói riêng. Trong giai đoạn tới, việc xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước góp phần xây dựng chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước đối với Bộ Công Thương trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đặt ra yêu cầu và thách thức mới cho Bộ Công Thương, đó là:

Thứ nhất, chủ động đón đầu xu thế và yêu cầu đối với sự phát triển của ngành và nhu cầu huy động nguồn lực các nhà khoa học trong tương lai gần và xa hơn. Bài toán dự báo trong bối cảnh CMCN 4.0 đã có thêm những tiêu chí, điều kiện ràng buộc mới, đòi hỏi sự kết hợp linh hoạt giữa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với cơ chế, chính sách của Bộ Công Thương để đảm bảo huy động nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước, góp phần xây dựng chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước đối với Bộ Công Thương có hiệu quả.

Thứ hai, thay đổi nội dung, phương thức huy động nhằm xây dựng, củng cố nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước, góp phần xây dựng chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước đối với Bộ Công Thương trong bối cảnh mới; tập trung vào khả năng huy động cho từng ngành/lĩnh vực/đơn vị một cách linh hoạt, phù hợp.

Thứ ba, tăng cường hợp tác với các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước một cách có hệ thống và có tổ chức nhằm gia tăng nguồn huy động. Đồng thời, xây dựng môi trường thuận lợi cho hoạt động khoa học và công nghệ, tăng cường khả năng liên kết trong nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ cũng như đáp ứng nhu cầu học tập, làm việc của các nhà khoa học thuộc mọi lứa tuổi, mọi thành phần... 

Thứ tư, cần thiết kế mô hình thu hút chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt với phương pháp luận đổi mới sáng tạo, cởi mở, thiết lập đầy đủ quy trình, môi trường làm việc, chế độ thù lao xứng đáng để bản thân chuyên gia và gia đình có cuộc sống tốt đẹp, từ đó các chuyên gia yên tâm cống hiến.

Thứ năm, thu hút chuyên gia, nhà khoa học cần chú trọng đến đối tượng tham gia là các đại học, trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu vì ở đó có hệ sinh thái đáp ứng được yêu cầu về cơ sở vật chất, cộng sự, tương xứng với đội ngũ chuyên gia.

Thứ sáu, cần xây dựng cơ chế tài chính đặc thù cho việc thu hút chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt có tính đột phá so với các quy định hiện hành để phát triển ngành Công Thương.

Thứ bảy, cần đầu tư xứng đáng về cơ sở vật chất, ngân sách khoa học cho các lĩnh vực nghiên cứu khoa học đổi mới sáng tạo, văn hóa thể thao vì đây là một trong những điều kiện về môi trường làm việc để thu hút chuyên gia, đi đôi với việc xây dựng ngân hàng dữ liệu về các chuyên gia, nhà khoa học ở Việt Nam và ở các nước, từ đó nhận diện nhu cầu của ngành Công Thương để tìm kiếm, mời gọi nhân tài.

II. Giải pháp huy động nguồn lực các nhà khoa học trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển ngành Công Thương

2.1. Phát triển khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp phát triển của ngành Công Thương thời gian tới

2.1.1. Mục tiêu phát triển khoa học công nghệ của ngành Công Thương

Ngành Công Thương đặt mục tiêu đến năm 2030, nâng cao đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng chung của ngành, lĩnh vực công nghiệp và thương mại thông qua các hoạt động nghiên cứu phát triển, ứng dụng, chuyển giao, đổi mới, làm chủ và nội địa hóa công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại, nâng cao năng lực tổ chức, quản trị doanh nghiệp; qua đó, góp phần xứng đáng vào việc thực hiện các mục tiêu chung của toàn ngành Công Thương đến năm 2030: Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5%/năm.

Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp, trọng tâm là các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp chế biến, chế tạo, góp phần dịch chuyển cơ cấu nội ngành lên các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị sản xuất; thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp mới, công nghiệp công nghệ cao; đóng góp thiết thực vào việc thực hiện các mục tiêu đến năm 2030: Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP và tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%.

Đồng thời, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đảm bảo cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phù hợp phục vụ phát triển thương mại trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu; thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện đại, chuyển đổi số trong các hoạt động thương mại, quản lý thị trường; phát triển thương mại điện tử, kinh tế số và các mô hình kinh doanh mới; góp phần tích cực thực hiện mục tiêu tăng trưởng doanh số thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (Business to Customer - B2C) bình quân từ 20 - 25%/năm.

Tỷ lệ nhiệm vụ khoa học và công nghệ xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn và có kết quả được ứng dụng vào thực tiễn đạt trên 90%; tối thiểu 50% kết quả nghiên cứu có khả năng chuyển giao cho doanh nghiệp, phục vụ sản xuất, kinh doanh; ít nhất 30% kết quả nghiên cứu được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ...

Các tổ chức khoa học và công nghệ ngành Công Thương được nâng cao về năng lực nghiên cứu, trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh, hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phấn đấu có khoảng 10 phòng thí nghiệm, thử nghiệm chuyên ngành có cơ sở vật chất, thiết bị nghiên cứu hiện đại, đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2017.

Khoảng 10 đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ có cơ sở sản xuất thực nghiệm, trung tâm tư vấn, chuyển giao công nghệ hoặc hình thành công ty khởi nghiệp trực thuộc để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu; tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ sau đại học ở các tổ chức khoa học và công nghệ công lập trong ngành Công Thương đạt tối thiểu 50%, trong đó phấn đấu số người đạt trình độ tiến sĩ chiếm trên 10%.

Cùng với đó, hỗ trợ được ít nhất 200 doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tiên tiến là kết quả của hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào quản trị, sản xuất, kinh doanh, đem lại hiệu quả tích cực trong hoạt động (thể hiện bằng tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, tạo việc làm và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động...).

2.1.2. Định hướng phát triển

Thứ nhất, nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển ngành Công Thương.

- Đánh giá hiệu quả, hiệu lực thực thi chính sách phát triển công nghiệp, thương mại, hội nhập hiện có; đề xuất các điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách, định hướng, giải pháp phát triển ngành, lĩnh vực, phân bố không gian công nghiệp, thương mại, kết cấu hạ tầng thương mại, logistics theo yêu cầu của tái cơ cấu ngành công nghiệp, thương mại và tác động từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

- Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn (trong nước và quốc tế) đề xuất các phương án, kịch bản phát triển của ngành, lĩnh vực trong giai đoạn 2025-2030; phương án và giải pháp thực hiện việc tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực sản xuất; cấu trúc lại không gian phát triển của các ngành, lĩnh vực phù hợp với định hướng phát triển chung của toàn ngành.

- Xây dựng phương án, chính sách đặc thù phục vụ phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên tại các vùng công nghiệp lõi được hình thành từ mỗi vùng kinh tế trọng điểm và các khu kinh tế ven biển.

- Xây dựng và hoàn thiện thể chế về phát triển vùng, phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp và cụm liên kết ngành công nghiệp dựa trên nền tảng là các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất...; nghiên cứu, cung cấp luận cứ đề xuất cơ chế, chính sách thí điểm về cụm liên kết ngành công nghiệp đối với một số sản phẩm trong các ngành công nghiệp ưu tiên theo lợi thế cạnh tranh, chuyên môn hóa và chuỗi giá trị.

- Xây dựng phương án tái cấu trúc các khu công nghiệp và khu kinh tế để hỗ trợ tốt nhất cho hình thành các cụm ngành công nghiệp chuyên môn hoá dựa trên khả năng kết nối chuỗi giá trị và khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp.

- Cung cấp luận cứ hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển, quy hoạch phát triển công nghiệp; cung cấp luận cứ xây dựng phương án điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo lãnh thổ, hình thành và phát triển liên kết công nghiệp giữa các địa phương trong phát triển công nghiệp.

- Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp, các trung gian cung cấp dịch vụ tư vấn công nghiệp như đầu tư, tài chính, thị trường, xúc tiến thương mại...

- Nghiên cứu, tư vấn giải quyết các vấn đề về cạnh tranh trong thương mại, chống các hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh ở thị trường trong và ngoài nước; phòng vệ thương mại để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; bảo vệ các doanh nghiệp công nghiệp, nền sản xuất và thị trường trong nước.

- Nghiên cứu, tư vấn đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, giá, phí, lệ phí, nhượng quyền; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng công nghiệp, thương mại, năng lượng. 

- Nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách nhằm tiếp cận thị trường vốn tín dụng nước ngoài, kêu gọi được các tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp, năng lượng.

- Nghiên cứu xây dựng chính sách tạo thuận lợi hóa về tiếp cận và mở rộng thị trường cho phát triển ngành công nghiệp; xây dựng kịch bản đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; các chính sách khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết.

- Nghiên cứu, tư vấn sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực thi cam kết trong các FTA, đặc biệt là các FTA mới có hiệu lực như CPTPP và EVFTA: sửa đổi, điều chỉnh, xóa bỏ quy định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế, đặc biệt trong FTA mà Việt Nam tham gia; đồng bộ hóa khung khổ pháp luật trên cơ sở bổ sung, sửa đổi các quy định hiện hành theo hướng đưa toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam ngày càng phù hợp hơn theo hướng “mở” của hội nhập để nắm bắt các cơ hội do hội nhập mang lại.

Thứ hai, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên.

- Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ sản xuất và công nghệ quản trị hiện đại gắn với quá trình chuyển đổi số và phát triển sản xuất thông minh, góp phần nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và sản phẩm công nghiệp chủ lực.

- Tập trung xây dựng và triển khai các chương trình, đề án KH&CN giai đoạn 2025-2030: Chương trình nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngành công nghiệp giai đoạn 2025-2030; Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao; Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Bộ phục vụ nghiên cứu, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị trong các ngành công nghiệp ưu tiên: công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện tử, công nghiệp dệt may, da - giầy giai đoạn 2025-2030; trong đó ưu tiên tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao gắn với quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa.

- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong công nghiệp chế biến; thực hiện đổi mới cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, thiết bị sản xuất, góp phần hình thành và phát triển ngành công nghiệp sinh học trở  thành ngành kinh tế có đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Đẩy nhanh việc xây dựng và triển khai Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành Công Thương đến năm 2030.

- Xác định các công nghệ chiến lược và lĩnh vực ưu tiên tập trung nghiên cứu, phát triển ứng dụng công nghệ từ cuộc Công nghiệp lần thứ tư; Xây dựng và triển khai Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ 4.0 và phát triển sản xuất thông minh giai đoạn 2025-2030, tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên, có lợi thế cạnh tranh và mức độ sẵn sàng chuyển đổi số cao.

- Tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu, ứng dụng phát triển công nghệ trong công nghiệp và thương mại, ưu tiên các ngành công nghiệp mới, công nghiệp công nghệ cao, lĩnh vực ưu tiên có tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam trong quá trình thực hiện các FTAs. Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao phục vụ phát triển các lĩnh vực ưu tiên trong thực thi các FTAs của ngành Công Thương giai đoạn 2025-2030.

- Đánh giá trình độ công nghệ, khả năng hấp thụ công nghệ; thiết lập bản đồ công nghệ và lộ trình đổi mới công nghệ, đặc biệt gắn với xu hướng phát triển công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho các ngành, lĩnh vực, sản phẩm ưu tiên trong giai đoạn 2025-2025.

- Xây dựng TCVN, QCVN cho các công nghệ được đầu tư, sử dụng trong nước, công nghệ nhập khẩu theo hướng công nghệ sạch; xây dựng lộ trình và triển khai việc loại bỏ các công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu và gây ô nhiễm...

2.2. Giải pháp thu hút các nhà khoa học trong lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại ở trong và ngoài nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển của ngành Công Thương

Đối với Bộ Công Thương, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc triển khai các chính sách thu hút, đãi ngộ và trọng dụng các chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới, cần quan tâm tới các giải pháp mang tính định hướng như sau:

Thứ nhất, cần cụ thể hóa bằng các chính sách hỗ trợ, đãi ngộ nhân tài hồi hương. Xây dựng, cụ thể hóa các chương trình quốc gia trợ cấp cho sinh viên và trí thức ở nước ngoài về tài chính nếu họ trở về như: “Chương trình hỗ trợ tài chính cho những giáo sư trẻ xuất sắc”, “Quỹ ươm mầm cho trí thức hồi hương”, “Chương trình đào tạo cán bộ xuất sắc xuyên thế kỷ”, “Quỹ khoa học quốc gia dành cho trí thức trẻ xuất sắc” và “Chương trình một trăm, một ngàn, mười ngàn”… Bên cạnh đó, cũng cần đưa ra các chính sách đãi ngộ, như trợ cấp mua nhà, miễn giảm các loại thuế, tìm việc cho vợ/chồng, cấp giấy phép thường trú.

Thứ hai, rà soát, cụ thể hóa các chính sách tuyển dụng, thu hút nguồn lực các nhà khoa học trong lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại trong và ngoài nước đáp ứng được yêu cầu của ngành Công Thương trong bối cảnh mới. Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ, thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng nguồn lực các nhà khoa học. Đồng thời, cần có chính sách thu hút và giữ chân người tài, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học - công nghệ vững về chuyên môn, nghiệp vụ. Trong chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với nguồn nhân lực, đầu tiên cần phải phát hiện, thu hút nguồn nhân lực hiện có bằng những chính sách phù hợp, bồi dưỡng, giữ gìn và nâng cao chất lượng,... 

Thứ ba, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở đảm bảo có mục tiêu và nội dung cụ thể khi thu hút các nhà khoa học về nước làm việc. Các chính sách thu hút phải gắn với yêu cầu nhiệm vụ KH&CN quan trọng của ngành Công Thương, có ảnh hưởng ở tầm quốc gia. Đồng thời, phối hợp với Bộ KH&CN kịp thời bổ sung các chính thu hút đối với những trường hợp chưa chứng minh được khả năng đóng góp có hiệu quả khi tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam để tránh bỏ sót những nhà khoa học có kinh nghiệm triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.

Thứ tư, xây dựng các chế độ ưu đãi về thù lao cho chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước, các kiều bào khi về nước làm việc trong ngành Công Thương. Nghiên cứu, xây dựng quy định mức mức sàn về lương/ thù lao áp dụng theo hình thức thỏa thuận cho các nhà khoa học về công nghiệp, năng lượng và thương mại trong và ngoài nước.

Thứ năm, đảm bảo sự minh bạch, công khai, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin và cơ chế đánh giá, xét duyệt theo thông lệ quốc tế đối với các chương trình, dự án, nhiệm vụ KH&CN thuộc lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại có sự hợp tác, tham gia của chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài.

Thứ sáu,cụ thể hóa nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài có thể tham gia các trao đổi học thuật, chuyên môn thông qua hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế có nội dung gắn với nhiệm vụ KH&CN đang hợp tác triển khai tại Bộ Công Thương, tổ chức hội thảo KH&CN phù hợp với lĩnh vực chuyên môn về lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và thương mại; công bố kết quả trong quá trình hợp tác; tham gia các chương trình, đề án trong nước có yếu tố đẩy mạnh hợp tác, thu hút chuyên gia, các nhà khoa học tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam.

Thứ bảy, đảm bảo tính liên tục và trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc thực thi, cũng như đánh giá, lắng nghe phản hồi để điều chỉnh chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế với mục tiêu cao nhất là gắn kết hiệu quả cộng đồng KH&CN là người Việt Nam trong nước và ở nước ngoài thành một nguồn lực quý giá của quốc gia.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2021-2030, Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII;

[2] Chính phủ (2023), Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 05 tháng 7 năm 2023 về nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững giai đoạn 2023-2030;

[3] Bộ Chính trị (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới;

[4] Ban chấp hành Trung ương, Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia;

[5] Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2024), https://xaydungchinhsach.chinhphu.