1. Cơ cấu thương mại
Cơ cấu thương mại là tổng thể các bộ phận, lĩnh vực hợp thành ngành thương mại và các mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định giữa chúng, thường được xem xét dưới 4 giác độ: (i) Xét theo các bộ phận cấu thành lớn của thương mại, cơ cấu thương mại bao gồm thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Bộ phận cơ cấu thương mại hàng hóa còn có thể chi tiết hóa theo các ngành hàng, nhóm hàng và mặt hàng chủ yếu; (ii) Xét theo thị trường, cơ cấu thương mại bao gồm thương mại trong nước và thương mại quốc tế (xuất, nhập khẩu). Trong từng lĩnh vực hợp thành này có thể chi tiết hóa tiếp theo không gian thị trường và gắn với đó là các mặt hàng; (iii) Xét theo thành phần kinh tế có thương mại Nhà nước, thương mại ngoài Nhà nước và thương mại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; (iv) Xét theo trình độ kỹ thuật và phương thức kinh doanh có thương mại hiện đại và truyền thống, thương mại bán buôn và bán lẻ…
2. Thực trạng cơ cấu thương mại
2.1. Cơ cấu xuất khẩu
Giai đoạn 2007 - 2019, xuất khẩu hàng hóa tăng trưởng nhanh, bình quân đạt 15,7%/năm, chủ yếu là tăng trưởng theo chiều rộng, gia tăng khối lượng, mở rộng thị trường và gia tăng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa. Tỷ trọng của khu vực kinh tế trong nước trong tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa từ 42,8% năm 2007 còn 32,2 % năm 2019; tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ 57,2% năm 2007 tăng lên 67,8 % năm 2019. Xét theo nhóm hàng, nhóm công nghiệp nặng và khoáng sản từ 34,4% năm 2007 tăng lên 50% năm 2019 (trong đó khoáng sản có xu hướng giảm); nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp từ 42,6% năm 2007 xuống còn 38,8% năm 2019; nhóm nông, lâm, thủy sản năm 2007, từ 23,1% giảm xuống còn 11,2%.
Theo bảng phân loại tiêu chuẩn ngoại thương, giai đoạn 2007 - 2019: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế chiếm 28,73% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam; tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế chiếm 71,07%. Xét theo các mốc thời gian, tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế từ 44,6 % năm 2007, giảm xuống 30,7% năm 2012 và chỉ còn 14,0 % năm 2019. Tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế từ 55,4% năm 2007 tăng lên 69,2% năm 2012 và đạt mức 86,0 % năm 2019.
Các thị trường, đối tác có tỷ trọng theo xu hướng tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn 2007 - 2019 gồm: Trung Quốc tăng từ 7,51% năm 2007 lên 15,7 % năm 2019; Hàn Quốc từ 2,6% lên 7,5 % năm 2019; Hoa Kỳ 20,81% năm 2007 lên 23,2 % năm 2019;
Các thị trường, đối tác có tỷ trọng theo xu hướng giảm trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn 2007 - 2019 gồm: EU 18,7 % năm 2007 giảm xuống 15,7 % năm 2019; ASEAN 16,7 % năm 2007 giảm xuống 9,5 % năm 2019; Nhật Bản 12,5% năm 2007 giảm xuống còn 7,7% năm 2018.
2.2. Cơ cấu nhập khẩu
Nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng khá nhanh, đạt 14,2%/năm trong giai đoạn 2007 - 2019. Khu vực kinh tế trong nước có tốc độ tăng trưởng (10,9%) chậm hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (18,1%). Theo mốc thời gian, tỷ trọng nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch nhập khẩu, từ 65,41% năm 2007 giảm xuống 42,9 % năm 2019; Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, từ 34,59% năm 2007 tăng lên 57,1 % năm 2019.
Giai đoạn 2007 - 2019, tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế chiếm 21,6 % tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam; Tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế chiếm 77,7%; Tỷ trọng hàng hóa khác là 0,7%.
Cơ cấu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam (theo bảng phân loại tiêu chuẩn ngoại thương) giai đoạn 2007 - 2019 nhìn chung đã chuyển dịch theo hướng tích cực: Tăng tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế từ 73,33% năm 2007 lên 76,27% năm 2012 và đạt 80,8% năm 2019; Tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế từ 24,57% năm 2007, giảm xuống 23,64% năm 2012 và còn 19,1 % năm 2019.
Xếp theo thứ tự, châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam. Tiếp theo là châu Mỹ, Châu Âu, châu Đại Dương. Châu Phi là thị trường không ổn định. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ. Cơ cấu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam theo thị trường, đối tác giai đoạn 2007 - 2019: Trung Quốc chiếm tỷ trọng bình quân 26,6% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa; ASEAN 16,5%; Hàn Quốc 16,4%; Nhật Bản 8,5%; EU 6,5%.
2.3. Cơ cấu bán lẻ
Ngành bán lẻ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ổn định từ khoảng 75,9 - 78,7% trong suốt giai đoạn 2010 - 2019. Theo thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ cả nước, tính theo giá thực tế, tăng bình quân 16,4%/năm (2011 - 2019). Số liệu thống kê theo vùng kinh tế cho thấy: giai đoạn 2015 - 2019, Đông Nam Bộ là vùng chiếm tỷ trọng cao nhất so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, dao động trong khoảng 33,0-33,2%; Tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng 22,0-22,6%; Đồng bằng sông Cửu Long 18,5-19,0 %; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 16,2%; Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc 5,0-5,1% và cuối cùng là Tây Nguyên với 4,5-4,6 %.
2.4. Đánh giá chung
Nhìn lại chặng đường đã qua, xét theo quan niệm cơ cấu, có thể rút ra những nhận xét sau:
- Thứ nhất, thương mại phát triển nhanh nhưng chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu.
- Thứ hai là thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa đẩy mạnh xuất nhập khẩu với phát triển thương mại và thị trường nội địa.
- Thứ ba, thương mại dịch vụ chậm phát triển dẫn đến chi phí cao và hiệu quả kinh doanh thấp. Thương mại hóa các sản phẩm hữu cơ, sản phẩm thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng… chậm phát triển.
3. Định hướng và giải pháp cho thời gian tới
Thế giới đang trải qua những thay đổi to lớn. Xu hướng chung là không từ bỏ, nhưng "liên kết" và "hội nhập" sẽ được các quốc gia tiến hành một cách thận trọng và có kiểm soát chứ không phát triển tràn lan, vô tổ chức với những hệ quả khôn lường. Lợi thế nhân công giá rẻ hay lợi thế tay nghề cao cũng không thể tạo đột phá trong bối cảnh cả đầu vào và đầu ra đều khó khăn. Những giải pháp cần thực thi bao gồm:
(i) Thúc đẩy phát triển các chuỗi liên kết: Phát triển mạnh các chuỗi liên kết hàng nông lâm thủy sản, nhất là các chuỗi đối với hàng thủy sản, nông sản có khối lượng lớn, rau quả, đồ gỗ… cũng như chuỗi và mạng lưới liên kết của các ngành công nghiệp, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam.
(ii) Tạo sự chuyển biến về chất trong phát triển thương mại tại các vùng kinh tế trọng điểm, thương mại trong các khu kinh tế cửa khẩu. Rà soát lại các quy hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển thương mại và công nghiệp của các vùng, lựa chọn ra địa điểm có lợi thế (cửa khẩu, trung tâm tiêu thụ hoặc sản xuất lớn) để tập trung cho phát triển và lôi kéo sự phát triển toàn vùng, phân công rõ trách nhiệm của từng địa phương và tổ chức thực hiện.
(iii) Xây dựng và phát triển hạ tầng thương mại đồng bộ (cả kể hạ tầng cứng và mềm): bố trí ngân sách Trung ương và địa phương để đầu tư và hỗ trợ xây dựng các hạ tầng thương mại được xác định là danh mục các công trình ưu tiên trong quy hoạch đã được phê duyệt. Vốn hóa và thu hồi về ngân sách cổ phần của nhà nước trong các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã cổ phần hóa mà nhà nước còn nắm giữ tỷ lệ thấp, ở những lĩnh vực không quan trọng để đầu tư vào hạ tầng thương mại.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT