BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Tình hình xuất nhập khẩu gỗ những tháng đầu năm 2022 và những thách thức trong tình hình mới

09/09/2022

Tình hình kinh tế các quốc gia trên thế giới rơi vào lạm phát trong những tháng đầu năm 2022 đã ảnh hưởng đến xuất khẩu nông lâm sản của Việt Nam. Trong 2 tháng 6 và 7 năm 2022, xuất khẩu gỗ và lâm sản liên tiếp sụt giảm về giá trị xuất khẩu, trong đó xuất khẩu gỗ của Việt Nam giảm sút từ 5,5 - 11% so với 2 tháng cùng kỳ năm 2021, điều này ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu gỗ trong 7 tháng qua. Dự báo các tháng cuối năm 2022, xuất khẩu gỗ sụt giảm mạnh về doanh thu và đơn hàng tại thị trường lớn nhất Hoa Kỳ, châu Âu, Anh... do lạm phát dẫn tới nhu cầu tiêu dùng giảm.

1. Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ

1.1. Tình hình xuất khẩu

Theo Báo cáo của Tổng Cục lâm sản Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong 7 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt 10,42 tỷ USD, tăng 1,3 % so với cùng kỳ năm 2021, trong đó: Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 9,72 tỷ USD, tăng 1,2 % (dăm gỗ 1,4 tỷ USD, tăng 29,8%, viên nén gỗ 0,45 tỷ USD, tăng 78,5%, ván các loại 0,91 tỷ USD, tăng 22,1%; sản phẩm gỗ 6,97 tỷ USD, giảm 6,9%);  Lâm sản ngoài gỗ đạt 0,7 tỷ USD, tăng 2,6 %.

Tổng giá trị xuất khẩu tại 5 thị trường chủ lực là Hoa Kỳ, Trung Quốc, châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc đạt 9,38 tỷ USD, chiếm 90% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Trong số đó, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt trên 5,84 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2021; riêng gỗ và sản phẩm gỗ 5,58 tỷ USD, giảm 5,1%. Nhật Bản xuất khẩu đạt 1,04 tỷ USD, tăng 19,4 % so với cùng kỳ năm 2021, trong đó Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 999 triệu USD, tăng 20,4%. Trung Quốc xuất đạt 1,161 tỷ USD, tăng 23,8 % so với cùng kỳ năm 2021, trong đó Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,15 tỷ USD, tăng 22,9 %;…

Trong 45 doanh nghiệp xuất khẩu đi thị trường Hoa Kỳ được khảo sát cho thấy, có 33 doanh nghiệp cho biết doanh thu hiện tại đã giảm gần 40% so với các tháng đầu năm 2022. Chỉ có 10 doanh nghiệp cho biết doanh thu tăng so với các tháng trước đó, tuy nhiên mức tăng rất nhỏ là 11%.

Xuất khẩu sang thị trường châu Âu đạt 726 triệu USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ 549 triệu USD, giảm 2%. Trong số 38 doanh nghiệp tham gia thị trường này được khảo sát có tới 24 doanh nghiệp cho biết doanh thu hiện giảm trên 41% so với các tháng trước đó. Chỉ có 4 doanh nghiệp cho biết nguồn thu tăng, ở mức 14%. Tại thị trường Anh, trong 25 doanh nghiệp tham gia thị trường này thì 17 doanh nghiệp thông báo có nguồn thu giảm, ở mức trên 41%.

Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 1,04 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ 999 triệu USD, tăng 20,4%; lâm sản ngoài gỗ 36 triệu USD, giảm 2%. Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 1,161 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ 1,15 tỷ USD, tăng 22,9%; lâm sản ngoài gỗ 15 triệu USD tăng 164,2%. Còn xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc đạt 623 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ 604 triệu USD, tăng 13,1%; lâm sản ngoài gỗ 19 triệu USD, tăng 7,9%.

Thời gian vừa qua, cung - cầu gỗ nguyên liệu và các mặt hàng gỗ trên thế giới tại các thị trường lớn như Hoa Kỳ và châu Âu có nhiều biến động do chi phí sản xuất, vận chuyển và sinh hoạt tăng cao. Nhu cầu tiêu dùng, nhất là đối với các nhóm hàng hóa không thiết yếu giảm. Do thị trường Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành gỗ đang giảm sút (do Hoa Kỳ đang thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng để kìm hãm lạm phát tăng dẫn đến nhu cầu tiêu dùng giảm) làm cản trở đà tăng trưởng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong nửa cuối năm 2022. Tiếp đó, nhiều thị trường khác trong khối châu Âu cũng đang đối mặt với tình hình lạm phát tăng cao, người tiêu dùng châu Âu sẽ thắt chặt chi tiêu, những điều này sẽ tác động lớn đến xuất khẩu gỗ và đồ gỗ Việt Nam trong thời gian tới.

1.2. Tình hình nhập khẩu

Giá trị nhập khẩu Gỗ và các sản phẩm gỗ trong tháng 7 ước đạt 289,4 triệu USD, tăng 2,4 % so với cùng kỳ năm 2021. Như vậy, Giá trị nhập khẩu 7 tháng ước đạt 1,87 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó: Gỗ nguyên liệu đạt 1,57 tỷ USD, tăng 6,4%; sản phẩm gỗ 295 triệu USD, giảm 15,7%.

Trong 7 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu từ hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, các thị trường nhập khẩu lớn là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Camơrun, Brasin, Thái Lan, Pháp, Chi Lê với tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 1,18 tỷ USD, chiếm khoảng 55,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, trong đó: Nhập khẩu gỗ từ Trung Quốc đạt giá trị 677 triệu USD, giảm 0,4 % so với cùng kỳ năm 2021. Hoa Kỳ đạt 188,5 triệu USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2021; Camơrun đạt 116 triệu USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm 2021; Brazin đạt 62,8 triệu USD, giảm 13% sơ với cùng kỳ năm 2021; Pháp đạt 50,5 triệu USD, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm 2021; Thái Lan đạt 81,4 triệu USD, giảm 16,6 % so với cùng kỳ năm 2021; Chi Lê đạt 45,1 triệu USD, giảm 23,9 % so với cùng kỳ năm 2021.

Một số thị trường có giá trị xuất khẩu tăng cao như Nga đạt 36,46 triệu
USD, tăng 48%; Phần Lan đạt 16,2 triệu USD, tăng 29%, Bỉ đạt 7,36 triệu USD
tăng 62,9%.

2. Thách thức ngành gỗ đang phải đối mặt

2.1. Nhu cầu tiêu dùng giảm

Trong cơ cấu xuất khẩu theo thị trường gỗ và các sản phẩm gỗ, tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng từ 51% (năm 2018) lên 66% (năm 2021) cho thấy đầu ra các sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang ngày càng phụ thuộc nhiều vào thị trường Hoa Kỳ. 

Trong đó, nhóm sản phẩm gỗ được các doanh nghiệp Việt tập trung đẩy mạnh tiêu thụ tại thị trường này chủ yếu là đồ nội thất cho gia đình, bao gồm: Đồ nội thất phòng khách, phòng ăn; Đồ nội thất phòng ngủ và ghế khung gỗ… Cũng chính vì thế mà sự bùng nổ của thị trường nhà ở tại Hoa Kỳ trong năm 2021 đã đem đến nhiều tác động tích cực, kéo tăng trưởng xuất khẩu gỗ của Việt Nam lên mức 19,7% so với cùng kỳ, bất chấp quy định về giãn cách xã hội.

Tuy nhiên, với việc lãi suất cho vay thế chấp bắt đầu tăng mạnh từ đầu năm 2022 và hiện duy trì ở mức trên 5% đã khiến cho xu hướng tích cực trước đó của thị trường nhà đất Hoa Kỳ không còn được duy trì. Lượng người có nhu cầu mua nhà giảm dần, trong khi giá bán nhà trung bình vẫn tiếp tục tăng cao - cán mốc 507.800 USD (+20% so với cùng kỳ năm 2021) đang là rào cản khiến thị trường nhà ở Mỹ trở nên hạ nhiệt kể từ đầu năm, kéo theo đó là sự sụt giảm về nhu cầu đồ gỗ nội thất.

Ngoài ra, tình trạng lạm phát cao tại Mỹ cũng đang có phần ảnh hưởng tiêu cực lên lực cầu tiêu thụ các sản phẩm gỗ nhập khẩu, do các khoản chi tiêu không thiết yếu bị thắt chặt so với trước. Chính những điều này là tác nhân khiến hoạt động xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ trở nên hụt hơi và có thể đánh mất đà tăng trưởng như trong năm 2021.

2.2. Xu hướng chuyển dịch vùng sản xuất

Hiện nay, giá cước vận chuyển container sang Hoa Kỳ liên tục duy trì ở mức cao so với cùng kỳ năm 2021, dao động từ 10.000 - 14.000 USD cho mỗi container, đang khiến cho giá mỗi đơn hàng nội thất gỗ từ Việt Nam đến tay khách hàng, gần như đội lên gấp đôi giá trị.

Mặc dù, gần như 100% các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt đều bán theo giá FOB (giá đã bao gồm chi phí vận chuyển lô hàng ra cảng, thuế xuất khẩu và thuế làm thủ tục xuất khẩu), nhưng với mức giá cước duy trì ở mức cao khiến cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam suy giảm.

Cụ thể, các khách hàng tại thị trường Hoa Kỳ và EU đang ưu tiên lựa chọn các nhà cung cấp lân cận tại một số nước Nam Mỹ và Đông Âu, những nơi có chi phí nhân công sản xuất cao, nhưng đang được bù đắp bởi lợi thế về địa lý và chi phí logistics so với Việt Nam. Qua đó, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp sản xuất trong nước chấp nhận giảm giá bán, nhằm chia sẻ rủi ro giá cước. Tình trạng này được dự báo sẽ còn tiếp diễn khi mà giá cước vận chuyển vẫn neo ở vùng giá cao như hiện tại.

2.3. Giá nguyên liệu đầu vào tăng cao

Việc Nga bị cấm xuất khẩu gỗ bởi tổ chức FSC (Hội đồng quản lý rừng quốc tế - Forest Stewardship Council) đã khiến thị trường gỗ nguyên liệu quốc tế rơi vào tình trạng thiếu hụt về nguồn cung. Điều này làm cho các nhà cung cấp gỗ từ EU buộc phải giữ lại một phần gỗ nguyên liệu để bù đắp cho sản lượng gỗ nhập từ Nga, qua đó thông báo tăng giá xuất khẩu gỗ nguyên liệu đến các đối tác (+20~60% so với cùng kỳ). Hệ quả là, hoạt động nhập khẩu gỗ của Việt Nam từ các thị trường khác cũng đối mặt với nhiều khó khăn. 

Để giảm thiểu các tác động từ đợt tăng giá này, các nhà sản xuất trong nước đã buộc phải tìm đến các nguồn gỗ nội địa thay thế. Dù vậy, khả năng đáp ứng của nguồn cung gỗ trong nước vẫn còn rất hạn chế. Do tỷ trọng gỗ rừng trồng đi vào chế biến đồ gỗ còn thấp, chỉ chiếm 30-40% trong tổng lượng gỗ khai thác, phần còn lại khoảng 60-70% chủ yếu phục vụ sản xuất dăm gỗ và viên nén. Cho nên, các doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng gỗ nội địa để thay thế một số bộ phận trong sản phẩm.

Tuy nhiên, chi phí của nguồn nguyên liệu này cũng đang bị đẩy lên cao trong khoảng thời gian gần đây, đặc biệt là gỗ keo - tăng hơn 20% so với cùng kỳ (dao động từ 1.050.000 đồng đến 1.320.000 đồng).

Nguyên nhân là vì giá dăm gỗ tăng mạnh khiến hoạt động khai thác và thu mua keo để sản xuất dăm diễn ra ồ ạt. Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn cung gỗ đầu vào đang khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể tiếp tục tiếp nhận đơn hàng mới và thậm chí một số phải tạm ngừng sản xuất.

Với những vấn đề mà ngành sản xuất Gỗ và các sản phẩm gỗ đang phải đối mặt, xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ những tháng cuối năm 2022 sẽ tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn, thách thức./.

Lê Anh Tú

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT