BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Một số yếu tố tác động tới xuất khẩu dệt may Việt Nam khi tham gia hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

20/12/2023

1. Hiệp định CPTPP và một số nội dung liên quan đến xuất khẩu dệt may

Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là Hiệp định thương mại tự do được đàm phán từ tháng 3/2010, bao gồm 12 nước thành viên là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam. Tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi TPP, TPP đã rơi vào tình thế khó khăn sau khi Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi thoả thuận thương mại mang tính quan trọng này. Việc Hoa Kỳ rút khỏi TPP có thể mở ra các cơ hội phát triển mới, nhưng đều phải đáp ứng về việc đảm bảo các tiêu chuẩn lao động, môi trường, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và một số yêu cầu khác.

Ngày 11/11/2017, 11 nước thành viên đã thống nhất đổi tên Hiệp định TPP thành CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương). Các nước CPTPP đã thảo luận và thống nhất các điều khoản khi đổi thành CPTPP, cùng với việc rà soát pháp lý để ký kết CPTPP.

CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại của TPP (không bao gồm Hoa Kỳ). CPTPP chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ 14/1/2019. Tính đến thời điểm hiện tại, Hiệp định CPTPP đã được cả 11 nước thành viên phê chuẩn. Vương quốc Anh là quốc gia đầu tiên ngoài nhóm quốc gia sáng lập tham gia vào Hiệp định. Sau khi nộp đơn xin gia nhập vào tháng 2/2021, Vương quốc Anh chính thức ký thỏa thuận gia nhập CPTPP vào ngày 16/07/2023, nâng tổng số thành viên của Hiệp định lên 12 thành viên.

Một số nội dung của CPTPP có liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may

Quy định về thuế quan

Theo quy định trong CPTPP, cắt giảm thuế về 0% sẽ theo lộ trình khác nhau với các nhóm mặt hàng bao gồm 03 nhóm: Nhóm loại bỏ thuế ngay sau khi CPTPP có hiệu lực; Nhóm loại bỏ thuế theo lộ trình 5 năm (giảm dần trong vòng 5 năm kể từ khi CPTPP có hiệu lực) và nhóm nhạy cảm (giảm thuế vào thời điểm CPTPP có hiệu lực, sau đó giữ nguyên mức thuế và xóa bỏ sau từ 10 đến 15 năm). Phân loại hàng dệt may theo mã HS bao gồm các chương HS 50 đến 63 sẽ cho miễn thuế đối với mặt hàng có nguồn nguyên liệu, được cắt, may hoặc lắp ráp trong nội khối CPTPP và đáp ứng điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan theo quy định của CPTPP.

Điều kiện để áp dụng miễn thuế, giảm trừ hoặc loại bỏ thuế quan theo quy định trong CPTPP cho các mặt hàng dệt may được nhập khẩu vào lãnh thổ của một Bên với số lượng gia tăng, và theo đó gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa thực tế cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Bên nhập khẩu cần ngăn chặn và phòng vệ những thiệt hại đó bằng việc tăng thuế suất đối với hàng hóa đó của một hoặc các bên xuất khẩu nhưng không vượt quá các mức sau: (1) Thuế suất tối huệ quốc (MFN) áp dụng tại thời điểm hành động khẩn cấp được thực hiện; (2) Thuế suất MFN áp dụng vào ngày ngay sau ngày Hiệp định có hiệu lực.

Xuất khẩu hàng dệt may sẽ phát triển nhanh chóng nhờ tận dụng tốt những ưu đãi về thuế. Tuy nhiên để được hưởng ưu đãi về thuế thì hàng dệt may xuất khẩu phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về quy tắc xuất xứ trong CPTPP. Như vậy tác động của thuế suất giảm sẽ trực tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu.

Quy định về quy tắc xuất xứ

Trong các điều khoản của CPTPP quy định 90 đến 95% các sản phẩm sẽ được cắt giảm thuế quan về 0%, để hưởng mức thuế quan ưu đãi đó, hàng dệt may buộc phải đáp ứng quy tắc xuất xứ “nội khối”, được hiểu là hàng dệt may xuất khẩu từ một thành viên CPTPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ trong nước hay được sản xuất tại các nước thuộc CPTPP, nếu sử dụng nguyên liệu của các nước thứ ba, ngoài thành viên CPTPP đều không được hưởng các ưu đãi thuế suất 0%. Khi đáp ứng được yêu cầu về quy tắc xuất xứ mới được cấp giấy chứng nhận xuất xứ là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan hải quan nước nhập khẩu xác định hàng hóa đến từ đâu, có đủ điều kiện để hưởng mức thuế quan ưu đãi do CPTPP mang lại hay không.

Hiệp định CPTPP có những quy định rất chặt chẽ về hàm lượng giá trị khu vực, tức là sản phẩm phải đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 55% tổng giá trị trở lên. Quy tắc này khuyến khích phát triển ngành công nghiệp dệt may, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, giúp các nước trong CPTPP tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong nội khối CPTPP và chuỗi cung ứng toàn cầu. Tất cả các chi phí cho việc tính hàm lượng giá trị khu vực được tính và chấp nhận chung, áp dụng trong lãnh thổ của nước sản xuất ra mặt hàng đó.

Tuy nhiên, trong CPTPP đã quy định về danh mục nguồn cung thiếu hụt bao gồm danh mục thường xuyên gồm các nguyên liệu dệt may không được sản xuất trong các nước thành viên CPTPP. Danh mục tạm thời gồm các nguyên liệu không được sản xuất trong CPTPP nhưng có thể sẽ được sản xuất trong tương lai, do đó các sản phẩm dệt may sử dụng nguyên liệu trong danh mục này sẽ được áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.

Quy định về biện pháp tự vệ

Với quy định này, CPTPP cho phép nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ, bao gồm tăng thuế suất đối với các mặt hàng của các Bên xuất khẩu đến một mức không vượt quá giá trị mức thuế suất tối huệ quốc (MFN) có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hoặc MFN có hiệu lực vào ngày liền trước ngày Hiệp định có hiệu lực đối với nước xuất khẩu, việc tăng thuế suất như trên được áp dụng nếu lượng hàng nhập khẩu từ các nước CPTPP có khả năng gây ra hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước. Khi áp dụng biện pháp tự vệ, nước nhập khẩu phải có giải pháp đền bù thiệt hại về kinh tế mà nước xuất khẩu phải gánh chịu do không được hưởng thuế ưu đãi như trong Hiệp định.

Sử dụng biện pháp tự vệ là cơ chế đảm bảo cho ngành dệt may của các nước nhập khẩu trước nguy cơ hàng dệt may nhập khẩu với lượng lớn vào thị trường sau khi áp dụng ưu đãi thuế gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước.

Quy định này sẽ gây ra những bất lợi nhất định cho các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của một nước khi xuất khẩu sang các nước trong CPTPP. Với quy định này, các nước CPTPP có thể thực thi đối với hàng dệt may xuất khẩu và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu dệt may của quốc gia đó.

Tuy nhiên, việc gây thiệt hại nghiêm trọng tới nền sản xuất của nước nhập khẩu ít khi xảy ra, do mỗi nước đều có lợi thế so sánh khác nhau về các sản phẩm dệt may.

Nếu quy định về biện pháp tự vệ được thực thi thì sẽ làm giảm lợi ích rất lớn từ những ưu đãi thuế quan. Như vậy biện pháp tự vệ trong CPTPP sẽ gây tác động tới xuất khẩu dệt may các nước thuộc CPTPP nếu các nước không đưa ra những giải pháp, chiến lược xuất khẩu hợp lý khi xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP.

2. Một số yếu tố vĩ mô tác động đến xuất khẩu dệt may Việt Nam khi tham gia CPTPP

2.1. Chính sách về hội nhập

Hiện nay, có rất nhiều hiệp định FTA thế hệ mới được ký kết, thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng và gắn kết với phát triển bền vững, liên kết toàn cầu. Các chính sách khuyến khích và quy định về hội nhập tạo thuận lợi lớn cho xuất khẩu hàng dệt may trong việc mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu, từ đó thúc đẩy phát triển xuất khẩu hàng dệt may.

Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do trong đó có CPTPP tạo ra các ưu đãi về cắt giảm thuế quan giúp tăng trưởng xuất khẩu dệt may, hàng dệt may sẽ được hưởng thuế xuất nhập khẩu ưu đãi tới 0% mang lại lợi thế cạnh tranh lớn. Giảm và xoá bỏ thuế sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng dệt may nhập khẩu giữa các nước tham gia do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã phong phú hơn. Giảm thuế giúp cho việc mở rộng thị phần hàng dệt may nhập khẩu tại các nước trong khu vực thương mại tự do.

Quy định về xuất xứ, hàng rào kỹ thuật, các điều khoản về lao động, môi trường gây ra sức ép, khó khăn cho một số quốc gia xuất khẩu hàng dệt may do chưa đủ điều kiện đáp ứng được những quy định trong các FTA. Yêu cầu về xuất xứ, hàng rào kỹ thuật đòi hỏi ngành công nghiệp dệt may tại các nước phải đầu tư vào phát triển ngành sợi, vải. Phát triển sản xuất nguyên phụ liệu trong nước sẽ gặp phải khó khăn trong giai đoạn ban đầu đối với một số nước mà trước đây phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu hay nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ thuật.

Trong sản xuất hàng dệt may, các nước cần khắc phục những bất cập về bảo vệ môi trường khi sản xuất nguồn nguyên liệu dệt may trong nước đặc biệt là trong công đoạn nhuộm và hoàn tất sản phẩm.

Ngoài ra, các FTA giúp cải thiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu từ các nước. Khi tham gia FTA nói chung, CPTPP nói riêng, chính phủ các nước có cơ hội được tham vấn về các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp. Đồng thời các nước sử dụng các cam kết về hàng rào kỹ thuật để tránh các tranh chấp thương mại.

2.2. Chính sách phát triển hạ tầng trong ngành dệt may

Kết cấu hạ tầng trong ngành dệt may gồm những công trình, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động trong lĩnh vực dệt may, trong đó bao gồm cả các công trình liên ngành đảm bảo cho hoạt động của toàn bộ các ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng trong ngành dệt may luôn mang tính thiết thực, là nền tảng vật chất có vai trò quan trọng trong phát triển ngành dệt may nói chung và phát triển xuất khẩu hàng dệt may nói riêng.

Mỗi quốc gia xuất khẩu luôn đưa ra chính sách trong đó có quy hoạch phát triển hạ tầng trong lĩnh vực dệt may vì các chính sách này có vai trò khuyến khích, tạo điều kiện quan trọng, tạo động lực đối với phát triển xuất khẩu hàng dệt may của một quốc gia. Ngành dệt may có kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ nâng cao năng suất, hiệu quả xuất khẩu, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường trong ngành dệt may, từ đó thúc đẩy phát triển xuất khẩu hàng dệt may. Nếu không có chính sách phát triển hạ tầng hợp lý, kết cấu hạ tầng trong ngành dệt may kém phát triển sẽ cản trở đối với phát triển xuất khẩu. Kết cấu hạ tầng thiếu và không đáp ứng nhu cầu sản xuất sẽ không mang lại hiệu quả trong đầu tư, không khai thác được hết các nguồn lực gây ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may.

Chính phủ cần phát triển hạ tầng ngành dệt may qua việc xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để giải quyết các vấn đề về mở rộng sản xuất nguyên phụ liệu, xây dựng hệ thống xử lý nước thải để tránh tình trạng ô nhiễm môi trường.         Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ cũng là một phần tất yếu, nền tảng trong phát triển hạ tầng ngành dệt may. Công nghiệp hỗ trợ sẽ tạo ra giá trị gia tăng cho ngành dệt may, làm tăng sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu. Công nghiệp hỗ trợ giúp sản xuất dệt may phát triển mạnh hơn. Chất lượng hàng dệt may xuất khẩu phụ thuộc vào chất lượng nguyên vật liệu, linh kiện, phụ kiện được sản xuất từ ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may. Công nghiệp hỗ trợ dệt may sẽ thúc đẩy ngành dệt may phát triển, sản xuất ra các sản phẩm hoàn thiện, có chất lượng cao. Ngoài ra, công nghiệp hỗ trợ tạo ra sự chuyên môn hóa trong sản xuất và tạo ra năng suất cao, hiệu quả, tạo ra sự liên kết chặt chẽ trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu.

Đối với ngành dệt may, chính sách công nghiệp hỗ trợ sẽ hướng đến phát triển ngành bông sợi, ngành trồng dâu, nuôi tằm, ngành kéo sợi, ngành cơ khí, ngành dệt vải, nhuộm in; Sản xuất ra các sản phẩm thuộc công nghiệp hỗ trợ dệt may bao gồm: (1) Chỉ may, sản phẩm thêu ren, bông tấm; (2) Mex dệt, mex không dệt; (3) Vải phản quang, chống cháy, vải dệt thoi; (4) Khóa kéo, móc gài, kim; (5) Nhãn dệt, nhãn mác; (6) Thuốc nhuộm, chất trợ nhuộm; (7) Phụ tùng máy dệt, máy may; (8) Phụ kiện đóng gói; (9) Cúc nhựa, cúc dập, băng các loại; (10) Phụ tùng máy sợi. Công nghiệp hỗ trợ dệt may phát triển sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài và tạo tăng trưởng bền vững. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư vào các quốc gia, khu vực mà họ có thể tận dụng được ngành công nghiệp hỗ trợ, đáp ứng được nhu cầu nguyên vật liệu, linh kiện, chi tiết sản phẩm để phục vụ cho dây chuyền sản xuất.

Chính sách công nghiệp hỗ trợ dệt may giúp tăng tỉ lệ nội địa hóa của hàng dệt may xuất khẩu và góp phần phát triển mạnh mẽ xuất khẩu hàng dệt may.

2.3. Chính sách đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, môi trường và tiêu chuẩn lao động

Trước tiên, chính sách đảm bảo yêu cầu kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong sản xuất dệt may. Chính sách đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật giúp áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất làm tăng hiệu quả sản xuất, sản lượng đạt mức cao và đáp ứng yêu cầu kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu.

Nhà nước sẽ khuyến khích việc tiếp thu chuyển giao công nghệ từ các nước khác là rất cần thiết trong việc cải tiến và phát triển khoa học, công nghệ. Từ việc tiếp thu công nghệ tiên tiến, ứng dụng, từng bước nâng cao và kết hợp với khoa học, kỹ thuật sẵn có trong nước để sản xuất trong ngành dệt may hiệu quả nhất.

Các mặt hàng dệt may xuất khẩu ngày càng yêu cầu cao hơn về kỹ thuật, công nghệ. Nhà nước có các chính sách khuyến khích áp dụng công nghệ tiến tiến, hiện đại, đảm bảo các yếu tố kỹ thuật trong công nghiệp dệt may làm cho sản phẩm dệt may xuất khẩu có tính cạnh tranh cao. Ngoài ra, nhà nước cần đưa ra các chính sách chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực dệt may tạo điều kiện phát triển xuất khẩu hàng dệt may qua việc tăng khả năng cạnh tranh với mức chi phí tối thiểu và nâng cao chất lượng xuất khẩu.

Nhà nước đưa ra các chính sách điều chỉnh phù hợp như xây dựng các nhà máy, trung tâm xử lý nước thải trong sản xuất dệt may để đảm bảo các yêu cầu về môi trường trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may.

Các chính sách về lao động cũng sẽ tác động tới phát triển xuất khẩu hàng dệt may. Chính sách về lao động quy định và điều chỉnh để đảm bảo các quyền về lao động được quốc tế công nhận trong đó có những tuyên bố của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về những nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc và những biện pháp thực hiện. Nhà nước đưa ra các chính sách điều chỉnh cũng phải đảm bảo về các quy định trong ILO. Nhà nước điều chỉnh các chính sách về đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong ngành dệt may là một trong những yếu tố góp phần phát triển xuất khẩu hàng dệt may.

2.4. Chính sách thị trường và xúc tiến xuất khẩu

Chính sách thị trường nhằm xây dựng các định hướng và các biện pháp mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, khai thác thị trường và xây dựng thị trường trọng điểm, đưa hàng dệt may vào thị trường tiềm năng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may.

Chính sách thị trường tác động đến sự phát triển xuất khẩu hàng dệt may thông qua việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đưa mặt hàng xuất khẩu đến tay người tiêu dùng, tìm được những thị trường xuất khẩu mới, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động xuất khẩu.

Nhà nước cần chủ động, tích cực trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may, đưa ra các chính sách tạo điều kiện tiếp cận thị trường xuất khẩu một cách tốt nhất, thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu tiềm năng. Từ đó, tạo nguồn lực, điều kiện phát triển xuất khẩu hàng dệt may.

 Chính sách xúc tiến xuất khẩu bao gồm việc triển khai các hoạt động như hỗ trợ xây dựng, quảng bá thương hiệu, hỗ trợ nghiên cứu, nâng cao năng lực thiết kế cho các doanh nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn khi xuất khẩu sang các thị trường. Chính sách xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ cho các doanh nghiêp dệt may tham gia hoạt động xúc tiến xuất khẩu tại các thị trường trọng điểm, các doanh nghiệp có điều kiện tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may, phát triển bền vững trong xuất khẩu hàng dệt may. Bên cạnh đó, chính sách xúc tiến xuất khẩu vạch ra các định hướng và biện pháp tham gia vào các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương trong đó có rất nhiều hiệp định liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may.

Nhà nước cần đưa ra các chính sách xúc tiến tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may như đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu sản phẩm, xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng dệt may xuất khẩu.

2.5. Chính sách mặt hàng và thương nhân

Chính sách mặt hàng đưa ra danh sách mặt hàng cần được định hướng và khuyến khích xuất khẩu, đảm bảo phù hợp với việc khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, trình độ phát triển và đặc điểm của nền kinh tế đất nước. Ngoài ra, chính sách còn đề ra danh mục các mặt hàng cần hạn chế, cấm xuất khẩu trong một thời gian nhất định, bảo hộ một số ngành sản xuất và bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiếm. Để phù hợp với thông lệ quốc tế, chính sách mặt hàng cần phù hợp với luật lệ thương mại quốc tế và chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo yêu cầu về an ninh quốc gia.

Dệt may là mặt hàng được xuất nhập khẩu ở rất nhiều các quốc gia trên thế giới vì có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nguyên liệu phong phú và lao động dồi dào, chi phí lao động thấp. Chính sách mặt hàng còn thúc đẩy phát triển sản phẩm mới phục vụ xuất khẩu hàng dệt may, nâng cao chất lượng hàng dệt may thông qua khuyến khích đầu tư phát triển sản phẩm mới, áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào có chất lượng trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may.

Nhà nước nên đưa ra chính sách mặt hàng hạn chế xuất khẩu sản phẩm gia công gây ô nhiễm môi trường thông qua việc ban hành giấy phép xuất khẩu cho danh mục các mặt hàng dệt may xuất khẩu đủ điều kiện. Đồng thời, Nhà nước đưa vào chính sách mặt hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản phẩm dệt may xuất khẩu từ chủ yếu làm gia công sang các sản phẩm tự sản xuất bằng nguồn nguyên liệu đầu vào trong nước, sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng, hàm lượng khoa học công nghệ cao, sản phẩm thân thiện môi trường. Trong đó được cụ thể bằng yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa đối với sản phẩm dệt may.

 Chính sách thương nhân thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu, tạo hành lang pháp lý minh bạch, bình đẳng cho các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách thương nhân quy định quyền hạn và nghĩa vụ của thương nhân. Theo đó, các thương nhân nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật nước sở tại và cũng được hưởng một số ưu đãi và được tạo điều kiên thuận lợi cho hoạt động kinh doanh tại quốc gia đó.

Chính sách thương nhân mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may cho mọi chủ thế của nền kinh tế như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước. Từ đó tác động tích cực và khuyến khích phát triển xuất khẩu hàng dệt may.

Chính sách thương nhân còn hỗ trợ thương nhân trong tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực quản lý thị trường, marketing xuất khẩu, nâng cao năng lực đàm phán, ký kết hợp đồng, xử lý tranh chấp trong thương mại quốc tế. Hỗ trợ các thương nhân tham gia các dự án liên kết, đưa sản phẩm của doanh nghiệp vào hệ thống phân phối của các nước. Thúc đẩy các thương nhân chú trọng đa dạng hoá kênh tiêu thụ, hạn chế các rủi ro thị trường trong hoạt động xuất khẩu.

Chính sách mặt hàng và thương nhân sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may, tác động rất lớn đến phát triển xuất khẩu hàng dệt may của quốc gia. Do vậy Chính phủ cần luôn có chính sách mặt hàng và chính sách thương nhân phù hợp, khuyến khích mọi thành phần tham gia kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may. Đây là những yếu tố tác động tích cực trong phát triển xuất khẩu hàng dệt may./.

TS.  Trần Thị Thu Hiền

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT