BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Bình Định lấy công nghiệp làm động lực tăng trưởng

28/05/2020

Bình Định lấy công nghiệp làm động lực tăng trưởng

Trong những năm qua, tình hình kinh tế trong nước ổn định, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng khá. Tuy nhiên, kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và khó lường; khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư gặp khó khăn... đã tác động trực tiếp tới phát triển kinh tế trong nước nói chung và trong tỉnh Bình Định nói riêng. Ngoài ra tình hình thời tiết thất thường, dịch bệnh... đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Song tỉnh Bình Định với cố gắng và quyết tâm cao nên ngành công nghiệp vẫn đạt được những  kết quả  khả quan.

Cơ cấu kinh tế công nghiệp chuyển dịch đúng hướng, một số chỉ tiêu chủ yếu đã có sự tăng trưởng như: tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), chỉ số sản xuất công nghiệp (SXCN), giá trị sản xuất công nghiệp, thu hút vốn đăng ký đầu tư vào các cụm công nghiệp (CCN) trên địa bàn tỉnh; Một số ngành công nghiệp hoạt động hiệu quả, có bước phát triển khá trong thời gian qua như: chế biến thức ăn chăn nuôi, sản xuất bia, sữa, hàng may mặc, dược phẩm, cơ khí, sản xuất và phân phối điện...; Các quy hoạch, cơ chế chính sách được rà soát, xây dựng, điều chỉnh và triển khai kịp thời, đảm bảo theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương; Công tác phát triển thị trường sản phẩm công nghiệp được quan tâm hỗ trợ thông qua các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu; hội nghị phổ biến, tập huấn kiến thức về thị trường, xuất xứ hàng hóa, rào cản thương mại, an toàn thực phẩm...

Về chỉ số sản xuất công nghiệp: Chỉ số SXCN tăng trưởng qua các năm: Năm 2016 tăng 7,3%, năm 2017 tăng 8,8%, năm 2018 tăng 8,7%, năm 2019 tăng 8,4% và ước năm 2020 tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước.

Về giá trị sản xuất công nghiệp: Đến năm 2020 ước đạt 50.000 tỷ đồng tăng 57,1% so năm 2015 và tăng 10,3% so với năm 2019; tổng giai đoạn 5 năm 2016 - 2020 ước đạt 208.348 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 9,5%/năm; Trong đó: Công nghiệp khai thác đến năm 2020 ước đạt 680 tỷ đồng, chiếm 1,4% giá trị SXCN toàn tỉnh; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn ước 7,5% /năm; Công nghiệp chế biến đến năm 2020 ước đạt 47.915 tỷ đồng, chiếm 95,80% giá trị SXCN toàn tỉnh, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 9,6%/năm; Công nghiệp sản xuất và phân phối điện đến năm 2020 ước đạt 1.105 tỷ đồng, chiếm 2,2% giá trị SXCN toàn tỉnh, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 6,2%/năm; Công nghiệp cung cấp nước, xử lý rác, nước thải đến năm 2020 ước đạt 300 tỷ đồng, chiếm 0,6% giá trị SXCN toàn tỉnh, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước  đạt 9,1%/năm .

Về phát triển cụm công nghiệp: Về công tác quy hoạch đến nay, trên địa bàn tỉnh đã quy hoạch phát triển 60 CCN với tổng diện tích 1.847,7 ha, trong đó đất sản xuất công nghiệp 1.298,6 ha; đã bồi thường giải phóng mặt bằng 646,3 ha đất công nghiệp, đất đã cho thuê và xin đăng ký đầu tư 531,2 ha, còn lại 767,4 ha, đạt tỉ lệ lấp đầy 40,9 %.

Công tác đầu tư xây dựng hạ tầng CCN: Tính đến nay hiện đã có 43/60 CCN đã đầu tư và thu hút các cơ sở sản xuất (CSSX) với diện tích QHCT 1.253,6 ha; Tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng của 40 CCN khoảng 1.916,8 tỷ đồng, đã thực hiện 616,7 tỷ đồng (đạt 32,2%). Toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng của 12/43 CCN với tổng diện tích 425,2 ha; tổng nhu cầu vốn đầu tư đăng ký khoảng 1.126,6 tỷ đồng, đã thực hiện 505,8 tỷ (đạt 44,9% tổng nhu cầu vốn). Trong đó, có 07 CCN đang hoạt động với tổng diện tích 240 ha; 05 CCN đang đầu tư hạ tầng với diện tích 185,2 ha.

Về thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN: Hiện tổng diện tích đất công nghiệp của 43 CCN đã đầu tư và thu hút các CSSX là 888,8 ha, đã cho thuê 531,3 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân 59,8%. Các CCN đã thu hút được 327 CSSX đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký 7.769,1 tỷ đồng để thực hiện 3.704,6 tỷ đồng (đạt 47,7%); giải quyết việc làm cho khoảng 173 lao động địa phương với mức lương bình quân từ 4,0 - 5,4 triệu đồng/người/tháng .

Mặc dù trong 5 năm qua, hoạt động SXCN tuy có tăng trưởng, nhưng vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế sau: mức tăng chậm và thấp hơn so với Nghị quyết đề ra. Nhiều sản phẩm có giá trị sản xuất lớn nhưng sản lượng sản xuất tăng thấp, nhất là mặt hàng vật liệu xây dựng, một số ngành CN chế biến vẫn tiếp tục thiếu nguyên liệu (thủy hải sản, sắn, đá granite...) nên máy móc thiết bị đầu tư chế biến chưa phát huy hết công suất, hiệu quả đầu tư thấp, việc chuyển đổi sang sản xuất sản phẩm gỗ nội thất còn chậm và khó khăn đã ảnh hưởng đến giá trị SXCN của toàn ngành, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng là 9,5 % năm, đạt thấp so Nghị quyết đề ra là 10,6 %/năm.

Công tác đầu tư hạ tầng các khu, CCN và làng nghề còn chậm (đạt dưới 20% so kế hoạch vốn), khả năng huy động vốn từ các nguồn khác còn yếu đã làm hạn chế đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phát triển công nghiệp. Công tác đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa thu hút được các dự án công nghiệp lớn, có vai trò đầu tàu, động lực phát triển công nghiệp và tạo bước đột phá trong nền kinh tế của tỉnh.

Ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản hoạt động hiệu quả thấp, có dấu hiệu chững lại do thị trường tiêu thụ gặp khó khăn. Các dự án chế biến hải sản đông lạnh gắn với các cảng cá triển khai chưa đồng bộ, chưa tạo ra năng lực sản xuất mới như dự kiến 3.500 tấn/năm. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng CCN chế biến thủy sản Cát Khánh chậm. Một số đơn vị sản xuất các sản phẩm chủ lực của tỉnh phải ngừng hoạt động một thời gian do không đáp ứng về điều kiện môi trường như: Công ty CP Chế biến Tinh bột sắn Bình Định, Công ty May Delta Galil Việt Nam, riêng đối với Công ty CP Đường Bình Định hiện nay dừng hoạt động và phá sản, ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp, các dự án xử lý rác thải chậm triển khai, một số CCN, làng nghề, điểm sản xuất tập trung xử lý môi trường chưa tốt gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Giá trị SXCN tạo mới trong Khu Kinh tế Nhơn Hội chiếm tỷ lệ thấp, chưa tạo được động lực thúc đẩy công nghiệp toàn ngành phát triển.

Hoạt động thu hút các dự án đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, số lượng dự án thu hút chưa đạt so mục tiêu đề ra, phần lớn các dự án triển khai chậm so với tiến độ đăng ký, chưa thu hút được dự án lớn làm động lực phát triển công nghiệp tỉnh nhà; tỷ lệ lấp đầy diện tích đất tại các CCN đạt thấp. Dự án lọc hóa dầu được kỳ vọng động lực phát triển công nghiệp giai đoạn này nhưng đã không thực hiện được, ảnh hưởng lớn đến chi tiêu tăng trưởng công nghiệp của tinh.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do mục tiêu đề ra không lường hết được sự biến động về khách quan trong thời gian dài (5 năm) cũng như nội lực nền kinh tế của tỉnh. Chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp chưa linh hoạt để giải quyết các vấn đề như kinh phí hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, chưa có giải pháp tích cực thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các CCN thuộc các huyện miền núi hoặc các CCN có vị trí không thuận lợi.

Giá trị SXCN, chỉ số SXCN chưa đạt được chi tiêu đề ra chủ yếu do công tác dự báo phát triển cũng như thị trường xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu không như kỳ vọng, công tác cảnh báo tác động và nguy cơ của những yếu tố bên ngoài về tình hình kinh tế định hướng thị trường cho doanh nghiệp chưa kịp thời, công tác xúc tiến thương mại mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp thiếu tính hệ thống, còn phân tán đơn lẻ, nguồn lực đầu tư phát triển hạn chế.

Doanh nghiệp công nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực đầu tư đổi mới dây chuyền máy móc, thiết bị hạn chế, đa phần trình độ công nghệ ở mức trung bình và lạc hậu, phần lớn doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu, tác phong và k luật lao động công nghiệp chưa cao, năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn hạn chế./.

Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Bình Định

 

Ngô Mai Hương

Phòng Thông Tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại