Phần 3: Kinh nghiệm quốc tế về thuận lợi hoá thương mại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Kinh nghiệm Malaysia
Thứ nhất, Malaysia đã miễn giảm thuế doanh thu đối với các ngành hàng và sản phẩm xuất khẩu có sử dụng nguyên liệu trong nước, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và đưa ra mức trợ cấp hợp lý đối với những hàng hóa liên quan đến xuất khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu còn được chính phủ hỗ trợ tín dụng và cho vay với lãi suất thấp cũng như thành lập trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức các hội chợ hàng xuất khẩu để kết nối thị trường Malaysia với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, nhằm tạo thuận lợi hoá thương mại, Malaysia thực hiện chính sách mở cửa thị trường, tạo mối quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới. Malaysia đã thay đổi chính sách thương mại của mình bằng cách đa dạng hóa thị trường, thay vì chỉ xuất khẩu sang các nước phát triển, nước này đã mở rộng sang các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là thị trường ASEAN và Trung Quốc.
2. Kinh nghiệm Thái Lan
Thứ nhất, Thái Lan thực thi các biện pháp thuận lợi hoá thương mại thông qua quy chế về thương mại và thuế quan: Hàng hóa xuất khẩu chỉ có một số loại thuế nhất định với nhiều quy định mang tính khuyến khích để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Các thành phần kinh tế đều được phép xuất khẩu. Bên cạnh đó, để khuyến khích buôn bán đường biển, Thái Lan khuyến khích hàng hóa chuyên chở bằng phương tiện của Thái Lan nếu không muốn phải chịu hai lần cước phí vận tải. Chính phủ nước này cũng sử dụng nhiều biện pháp thuế và phi thuế để bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ.
Thứ hai, nhằm tạo thuận lợi cho thương mại phát triển, điều tất yếu là Thái Lan mở cửa thị trường: đây được coi là một phần quan trọng trong chính sách thương mại của Thái Lan.
3. Kinh nghiệm Singapore
Thứ nhất, chính phủ Singapore tạo ra một thị trường hoàn toàn tự do với nhiều ưu đãi dành cho các công ty nước ngoài bằng cách không sử dụng hàng rào phi thuế quan cũng như không trợ giá xuất nhập khẩu. Đặc biệt, thủ tục xuất nhập khẩu tại Đảo quốc này rất đơn giản và nhanh chóng.
Thứ hai, hiện đại hoá công nghệ thông tin góp phần không nhỏ giúp Singapore thực hiện các chính sách về xuất nhập khẩu. Singapore luôn tiên phong trong việc áp dụng những tiến bộ mới trong khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực xuất nhập khẩu như hình thức “thương mại không giấy tờ” nhằm đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập khẩu, hệ thống cấp phép tự động cho phép các nhà xuất nhập khẩu có thể nhận được giấy phép trong vòng 3 phút.
Thứ ba, để tạo môi trường đầu tư tốt, Singapore chủ trương áp dụng chính sách hỗ trợ tín dụng nhằm tăng cường vốn cho các doanh nghiệp trong nước, đồng thời hỗ trợ bảo hiểm hàng hóa giúp nhà sản xuất yên tâm hơn về hàng hóa mình sản xuất ra để tự tin mở rộng thị trường ra quốc tế.
Thứ tư, Singapore còn tích cực thực hiện tự do hóa thương mại thông qua các hoạt động cắt giảm thuế quan. Nước này tham gia vào hoạt động của nhiều tổ chức thương mại đa phương và thực hiện các chính sách cắt giảm thuế theo đúng với quy định của từng tổ chức này. Có thể nói, Singapore đã tạo ra một thị trường xuất khẩu hoàn toàn tự do (có tới 96% hàng hóa xuất nhập khẩu không có thuế) nên các hoạt động thương mại quốc tế của đất nước này ngày càng được mở rộng với sự tham gia của nhiều nước trên khắp thế giới.
Thứ năm, nhằm thuận lợi hoá thương mại, Singapore chú trọng phát triển quan hệ thương mại với các nước phát triển như Tây Âu, Mỹ, Nhật nhằm thu hút các khoản đầu tư thì nay Singapore đã mở rộng thị trường sang các nước đang phát triển để tìm kiếm các thị trường tiềm năng mới và trở nên độc lập hơn về công nghệ và vốn.
4. Kinh nghiệm Trung Quốc
Về chính sách thị trường, Trung Quốc tăng cường thâm nhập thị trường hiện có cũng như tìm kiếm thị trường tiềm năng mới bằng cách tung ra thị trường những sản phẩm có tính cạnh tranh cao.
Trung Quốc ban hành luật thuế đối kháng và chống bán phá giá để hàng nội địa và hàng hóa nước ngoài được cạnh tranh một cách tự do bình đẳng trên thị trường nước này.
Từ khi gia nhập WTO, thay vì các biện pháp hỗ trợ trực tiếp từ chính phủ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, Trung Quốc chuyển sang chính sách xúc tiến thương mại, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển thông qua Quỹ phát triển, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, mở rộng quyền hạn cho các tổng công ty xuất khẩu trong nước, cho phép các địa phương thành lập các công ty ngoại thương để tự chủ trong hoạt động xuất khẩu của mình.
Đối với đầu tư nước ngoài, Trung Quốc khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như cải cách nông nghiệp, kỹ thuật sinh học, xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển, các khu công nghiệp cao, hoặc các dự án có đầu tư, áp dụng công nghệ và thiết bị hiện đại để thay đổi các ngành công nghiệp truyền thống.
5. Kinh nghiệm Nhật Bản
Về chính sách xuất khẩu, Nhật Bản từ nhiều năm trước đã biết tận dụng kinh nghiệm và thế mạnh của mình trong việc chế biến các sản phẩm bằng nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài để từng bước mở rộng sản xuất và tăng cường xuất khẩu. Ngoài ra, nước này ban hành chính sách kiểm tra chất lượng xuất khẩu rất nghiêm ngặt để đảm bảo toàn bộ hàng hóa xuất khẩu đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Bên cạnh đó, chính phủ nước này còn áp dụng các biện pháp hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu, chẳng hạn như miễn giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu để hỗ trợ tín dụng cho những dự án xuất khẩu có kim ngạch lớn.
Về chính sách nhập khẩu, quốc gia này duy trì chế độ mậu dịch tự do, xúc tiến mở cửa thị trường, cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu và cải thiện hệ thống cấp chứng nhận. Nhờ thế, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản tăng trưởng đều đặn và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Về hệ thống thuế quan và phi thuế quan, Nước này đề ra nhiều loại thuế khác nhau áp dụng cho từng loại hàng hóa nhằm bảo vệ lợi ích cho các hàng hóa nội địa để giảm thiểu rủi ro do bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu của nước ngoài. Còn về hệ thống phi thuế quan, Nhật luôn chủ trương hạn chế quy mô nhập khẩu và hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập khẩu được thực hiện rất khắt khe để đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người dân.
Về chính sách tự do hóa thương mại, Nhật Bản luôn đề cao chính sách này để đảm bảo nguồn cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng cho đất nước cũng chính là để hoàn thiện hơn nền kinh tế của mình.
6. Kinh nghiệm Mỹ
Thứ nhất, Mỹ áp dụng các rào cản thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo thuận lợi cho thương mại phát triển, theo đó, hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào thị trường nước này không phải chịu thuế hoặc với mức thuế rất thấp, đặc biệt là đối với hơn 150 nước đang phát triển hiện nay. Nhưng ngược lại, Mỹ áp dụng thêm các biện pháp phi thuế quan, tăng cường bảo hộ mậu dịch nhằm hạn chế số lượng đối với một số mặt hàng nhập khẩu, nhất là các mặt hàng tiêu dùng, dệt may. Đối với hàng hóa nhập khẩu, Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng, chẳng hạn như hạn ngạch nhập khẩu nhằm giới hạn khối lượng hay số lượng các loại hàng hóa khác nhau được phép nhập khẩu vào thị trường Mỹ trong một khoảng thời gian xác định.
Thứ hai, nhằm tạo thuận lợi tự do hoá thương mại, Mỹ đề ra các chương trình ưu đãi thương mại chẳng hạn như Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập và Chương trình Xúc tiến thương mại và Chống ma túy dành cho các nước khu vực Nam Mỹ.
7. Bài học gợi mở cho Việt Nam
Thứ nhất, nhằm tạo thuận lợi hoá thương mại, Việt Nam tiến hành mở cửa thị trường. Nhiều nước hiện nay như Malaysia, Singapore, Nhật, EU, Mỹ, Trung Quốc đều đang tích cực tham gia các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới, mở rộng mối quan hệ đối tác thương mại để tìm kiếm thị trường tiềm năng cho nước mình. Nếu như trước kia, các nước phát triển là thị trường xuất khẩu chủ đạo của các quốc gia thì hiện nay các nước đang tích cực mở rộng thị trường ra các khu vực các nước đang phát triển để tìm hiểu, phân tích, định hướng thị trường, xác định nhu cầu của người tiêu dùng từ đó cho ra đời các sản phẩm đáp ứng được những nhu cầu đó.Từ đầu những thập niên 90 đến nay, Việt Nam không ngừng tìm kiếm thị trường mới và tích cực tham gia các tổ chức kinh tế lớn, chẳng hạn như ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), ASEM (Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương), WTO (Tổ chức thương mại thế giới) và gần đây nhất là TPP (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương).
Thứ hai, Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp với bảo hộ mậu dịch để đảm bảo quyền lợi cho các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước. Về hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu, giống như Malaysia và Thái Lan trong việc áp dụng thuyết lợi thế so sánh, Việt Nam cần khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, phát huy những ngành thế mạnh của đất nước và đặt thị trường mục tiêu là các nước phát triển để nâng cao chất lượng sản phẩm sẵn có, đồng thời áp dụng chính sách tăng cường sản phẩm mới để đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhanh nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Nước ta cũng cần học tập Trung Quốc, Nhật Bản trong việc áp dụng các chính sách kiểm tra giám định nghiêm ngặt các mặt hàng xuất khẩu để đảm bảo chất lượng và uy tín của sản phẩm Việt, từng bước nâng cao tính cạnh tranh trên thương trường.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp thuận lợi hoá thương mại, Chính phủ cần tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước trong tiến trình hội nhập với thị trường quốc tế. Cụ thể, chính phủ cần hết sức tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước bằng cách giảm thuế, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan hay áp dụng các chính sách hỗ trợ về vốn, tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Chẳng hạn như Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã ký văn bản hợp tác với nhiều ngân hàng các nước khác để tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng cho các doanh nghiệp nước mình, đồng thời Trung Quốc cũng tăng cường dự trữ ngoại tệ để bình ổn tỷ giá. Hay như Nhật Bản thành lập ngân hàng xuất khẩu để hỗ trợ tín dụng cho các dự án xuất khẩu có kim ngạch lớn. Đây đều là các biện pháp mà Việt Nam có thể áp dụng được để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước nhà.
Thứ tư, Việt Nam cần cải thiện môi trường kinh tế trong nước theo hướng minh bạch, tự do, cạnh tranh công bằng giữa các công ty trong nước và nước ngoài để thu hút các đối tác trong khu vực và thế giới. Singapore hiện nay là nước đã áp dụng khá thành công hệ thống công nghệ thông tin vào thủ tục hành chính, nhất là cấp giấy phép xuất nhập khẩu điện tử, giúp đơn giản hóa thủ tục và tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Trong khi đó rất nhiều nhà đầu tư e ngại thị trường Việt Nam do thủ tục pháp lý rườm rà, mất nhiều thời gian. Chính vì thế, trong tương lai, chính phủ cần tích cực tích hợp công nghệ thông tin vào các thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường. Chúng ta cũng có thể học hỏi kinh nghiệm từ Trung Quốc và Nhật Bản trong việc đơn giản hóa hệ thống văn bản pháp luật, bỏ bớt các điểm không cần thiết, học Mỹ trong việc công bố rõ ràng các chính sách thương mại quốc tế nhằm tạo thị trường minh bạch cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư có thể hoạch định chính sách cho tổ chức của mình.
ThS. Lương Thanh Hải
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại -VIOIT