BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại tỉnh Bình Dương 5 tháng đầu năm 2023

24/06/2023

Tháng 5 năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp và bất ổn, ảnh hưởng lớn đến tiến trình phục hồi cũng như tốc độ tăng trưởng của một số ngành công nghiệp chủ lực Bình Dương. Mặc dù các doanh nghiệp đã chủ động thay đổi phương thức tiếp cận, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm khách hàng mới nhưng số lượng đơn hàng và quy mô đơn hàng vẫn giảm mạnh, khiến nhiều ngành công nghiệp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh bị sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2022 cụ thể:

Về sản xuất công nghiệp:

Theo báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Bình Dương, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh từ đầu năm 2023 đến nay gặp nhiều khó khăn, nhất là các ngành sản xuất mặt hàng gỗ, dệt may, da giày chịu nhiều tác động tiêu cực của thị trường thế giới nguyên nhân là do chiến tranh, xung đột, lạm phát tăng vọt, các Chính phủ châu Âu đang đưa ra các biện pháp giảm thuế, trợ cấp trị giá hàng trăm tỉ Euro khiến tình hình xuất khẩu chậm lại và tiếp tục khó khăn trong tháng 5 năm 2023, hiện tại nhiều doanh nghiệp không có đơn hàng mới. Để hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và phục hồi sản xuất kinh doanh, trong thời gian qua Tỉnh Bình Dương luôn đồng hành cùng với doanh nghiệp thông qua các giải pháp hỗ trợ như đẩy mạnh thương mại điện tử; hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường mới xuất khẩu; giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay; đẩy mạnh giải ngân chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm; giải quyết vấn đề an sinh xã hội cho người lao động, thu hút đào tạo lực lượng lao động có tay nghề cao theo nhu cầu của doanh nghiệp… nhờ đó mà chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 5 năm 2023 theo ước tính tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,8%, sản xuất và phân phối điện khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí chỉ bằng 98,6% và tăng 2,6%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2%. Trong đó, có các sản phẩm có chỉ số tăng so với tháng trước như: Cà phê các loại tăng 3%; nước chấm các loại tăng 5%; sợi các loại tăng 4,3%; quần áo các loại tăng 3,5%; giày thể thao tăng 9,3%; gỗ dán tăng 6,9%; bao bì giấy các loại tăng 3,2%; thuốc viên tăng 5%; bê tông tươi tăng 6,5%; nước uống tăng 1,8%. Song ở chiều ngược lại, vẫn có một số ngành có sản phẩm có chỉ số giảm như: Đá xây dựng giảm 3,8%; nước có vị hoa quả giảm 2,5%; gỗ xẻ các loại giảm 42,3% so với tháng trước.

Lũy kế 5 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 2,1% so với cùng kỳ; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,2%, trong ngành công nghiệp cấp II, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 9,3%; đồ uống tăng 27,6%; thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 14,5%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 17,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 12,3%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,9%. Nhưng cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,2%; ngành công nghiệp khai khoáng gặp nhiều khó khăn do thiếu đơn hàng, hàng hóa không bán được trên thị trường, nên ước tính chỉ số sản xuất chỉ bằng 99,2%; ngành sản xuất phân phối điện khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong số các sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng sản xuất ước đạt cao hơn so với cùng kỳ năm 2022 như: Sữa và kem chưa cô đặc các loại tăng 5,9%; nước chấm các loại tăng 5,2%; cà phê các loại 39%; thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản tăng 1%; nước có vị hoa quả tăng 28,8%; bê tông tươi tăng 9,4%. Bên cạnh đó, vẫn có một số sản phẩm giảm mạnh như: Máy may dùng cho gia đình giảm 24,5% giày thể thao giảm 20,5%;  sợi các loại, quần áo các loại giảm 11,4%; đá xây dựng giảm 0,8%; so với cùng kỳ năm trước.

Về hoạt động thương mại, dịch vụ

Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tháng 5 năm 2023 đạt 25.898,8 tỷ đồng, tăng 3,2% so với tháng trước, tăng 17,7% so với cùng kỳ. Lũy kế doanh thu bán lẻ hàng hóa 5 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh ước đạt 83.749,7 tỷ đồng, chiếm 67,7% tổng số, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 24.673,3 tỷ đồng, tăng 17,8% so với cùng kỳ; nhóm hàng đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 6.423 tỷ đồng, tăng 14,8%; nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục đạt 451,3 tỷ đồng, tăng 13,7%; nhóm xăng dầu đạt 5.844,4 tỷ đồng, tăng 22,6%. Doanh thu hoạt động từ các dịch vụ khác ước đạt 12.536 tỷ đồng, tăng 9,9%. Nhìn chung, hoạt động thương mại và dịch vụ phục hồi nhanh ở tất cả các ngành; nguồn cung hàng hóa dồi dào tại các siêu thị và chợ truyền thống, đảm bảo phục vụ đầy đủ nhu cầu mua sắm của người dân; chỉ số giá tiêu dùng được kiểm soát tốt không có tình trạng đầu cơ tích trữ, gom hàng nâng giá.

Về hoạt động xuất nhập khẩu

Xuất khẩu:

Các mặt hàng sản xuất và xuất khẩu chủ lực cuả "thủ phủ" công nghiệp bị giảm sút nhất là các ngành sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh chịu nhiều tác động tiêu cực của thị trường thế giới, với áp lực lạm phát gia tăng, thiếu hụt nguồn cung khiến chi phí đầu vào tăng cao, thu nhập khả dụng giảm sút, người tiêu dùng buộc phải kiểm soát chi phí để hạn chế tác động của lạm phát đối với các hoạt động mua sắm làm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, các thị trường xuất khẩu chính của tỉnh tiếp tục giảm như sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng 17,5% kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh đạt 2.188,1 triệu USD, giảm 21,4%, giày da chiếm tỷ trọng 5,2% đạt 648 triệu USD, giảm 31,7% các doanh nghiệp trong ngành đang lựa chọn hình thức tạm nhập tái xuất, thực hiện các công đoạn gia công, đóng gói và xuất trở lại. Tỷ trọng tham gia vào các sản phẩm tạm nhập tái xuất này chỉ chiếm khoảng 40-50% giá trị, nhưng đây là  những nỗ lực từng bước vượt qua khó khăn, thích nghi để duy trì hoạt động, tăng việc làm, tạo thu nhập, giữ chân người lao động ở lại Doanh nghiệp trong giai đoạn suy thoái. Trong bối cảnh hầu hết các doanh nghiệp có lượng đơn hàng sụt giảm từ 25 - 30% so với cùng kỳ năm trước và đến cuối tháng 5 vẫn chưa có tín hiệu khởi sắc, Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may trên địa bàn tỉnh 3 tháng đầu năm 2023 vẫn giảm sâu 17,4%. Nhưng do các doanh nghiệp dệt may đang nỗ lực cải tiến quy trình hoạt động, đầu tư công nghiệp, hướng đến phát triển bền vững; sử dụng các ứng dụng trực tuyến, thương mại điện tử để trao đổi, gửi mẫu tới khách hàng, vừa tiết kiệm chi phí, vừa tiết kiệm thời gian, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc đánh giá và điều chỉnh mẫu hơn trước. Nhờ đó mà trị giá kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng này đạt 1.202,3 triệu USD, chiếm tỷ trọng 9,6% kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh tăng 1,1%. Bên cạnh các ngành hàng chủ lực xuất khẩu có xu hướng giảm dần, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu của Bình Dương với kim ngạch xuất khẩu đạt 544,7 triệu USD, chiếm tỷ trọng 4,4% tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2022. Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu các mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất của tỉnh Bình Dương với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt hơn 4,8 tỷ USD, chiếm 38,9% kim ngạch xuất khẩu và giảm 9,7% so với cùng kỳ. Còn thị trường châu Âu (EU) đạt gần 1,8 tỷ USD, chiếm 14,4% và giảm 2,3%. Bên cạnh đó, thị trường Nhật Bản đạt gần 1,4 tỷ USD, chiếm 11,2% và giảm 6,4%; Hàn Quốc đạt hơn 1,3 tỷ USD, chiếm 10,5% và giảm 13,2%.

Trị giá kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 5 năm 2023 ước đạt 3.007,9 triệu USD, tăng 17,1% so với tháng trước và tăng 2,8% so với cùng kỳ. Trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 567,2 triệu USD, tăng 16,8% và tăng 1%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.440,6 triệu USD, tăng 17,1% và tăng 3,3%. Lũy kế 5 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 12.470,8 triệu USD, giảm 17,9% so với cùng kỳ. Trong đó: khu vực kinh tế trong nước 2.333,8 triệu USD, giảm 17,6%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 10.137 triệu USD, giảm 18%.

Nhập khẩu:

Trị giá kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 5 năm 2023 ước đạt 2.068,4 triệu USD, tăng 16,6% so với tháng trước. Trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 298,7 triệu USD, tăng 16,8%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.769,6 triệu USD, tăng 16,5%. Lũy kế 5 tháng năm 2023, trị giá kim ngạch nhập khẩu hàng hoá ước đạt 8.919,1 triệu USD, giảm 13,5% so với cùng kỳ. Trong đó: khu vực kinh tế trong nước 1.279,3 triệu USD, giảm 13,6%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7.639,7 triệu USD, giảm 13,5%. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh, với kim ngạch đạt 3.398,6 triệu USD, chiếm 38,1% kim ngạch nhập khẩu và giảm 27,1% so với cùng kỳ; Nhật Bản đạt 1.162,3 triệu USD, tương ứng chiếm 13% và tăng 5,6%; Đài Loan đạt 739,9 triệu USD, chiếm 8,3% và giảm 19,7%; Hàn Quốc đạt 694,7 triệu USD, chiếm 7,8% và giảm 11,7%; thị trường EU đạt 542,8 triệu USD, chiếm 6,1% và giảm 15,6%; Thái Lan đạt 521 triệu USD, chiếm 5,8% và tăng 1,7%... Sự tăng giảm đan xen trong lĩnh vực nhập khẩu cho thấy các DN vẫn nỗ lực để chuẩn bị nguồn cung nguyên liệu, máy móc với kỳ vọng xuất khẩu sẽ sớm khởi sắc trở lại. 5 tháng năm 2023, Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Bình Dương vẫn đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 3.551,8 triệu USD, trong đó: khu vực kinh tế có vốn đầu tư trong nước xuất siêu 1.454,4 triệu USD, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất siêu 2.497,3 triệu USD.

Nhìn chung trong tháng 5, kinh tế Bình Dương có sự chuyển biến tích cực, trong đó sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhẹ so với tháng trước. Tuy nhiên, theo đánh giá của UBND tỉnh Bình Dương hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn gặp rất khó khăn do thiếu hụt đơn hàng, thu hút đầu tư chậm lại, giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp so với kế hoạch…

Các nhiệm vụ giải pháp trong thời gian tới

Để tiếp tục duy trì đà tăng trưởng trong các quý còn lại của năm 2023, thời gian tới Bình Dương cần thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về thực hiện mục tiêu vừa phục hồi và vừa phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện sơ kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh đã đề ra, trong đó tập trung đánh giá cụ thể 4 Chương trình đột phá chiến lược và 9 nhóm nhiệm vụ trọng tâm. Thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 theo đúng chế độ, chính sách hiện hành; sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước, huy động tối đa các nguồn lực xã hội để đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt là hạ tầng giao thông và hạ tầng văn hóa - xã hội. Xây dựng các giải pháp căn cơ, quyết liệt hơn nữa để thực hiện có hiệu quả Kế hoạch đầu tư công năm 2023, tạo bước đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng. Chú trọng tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm mang tính chất lan tỏa, kết nối vùng như Vành đai 3, Vành đai 4, Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các giải pháp cụ thể tạo chuyển biến rõ nét về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác kinh doanh. Tiếp tục thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng tạo thuận lợi tối đa, giảm thời gian và chi phí không chính thức cho người dân và doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Đẩy mạnh công tác hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hình thành 03 vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Tập trung hoàn thành Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 đảm bảo tiến độ, chất lượng. Tiếp tục nâng cao chất lượng quản lý về tài nguyên và môi trường; tập trung các nhiệm vụ liên quan đến Phương án khai thác nguồn thu từ quỹ đất dành nguồn lực đầu tư cho các dự án đầu tư công; đẩy nhanh công tác lập, thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng năm. Triển khai chỉnh trang, nâng cấp đô thị; khắc phục, chỉnh trang các khu, điểm nhà ở tự phát, xử lý các điểm ngập úng đô thị; tăng cường quản lý thị trường bất động sản, nhà ở hình thành trong tương lai; đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, đáp ứng nhu cầu về chỗ ở, đảm bảo chất lượng cho người lao động.

Tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, thu hút mạnh mẽ nguồn lực bên ngoài góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đảm bảo bền vững gắn với lộ trình xây dựng Vùng đổi mới sáng tạo và đề án thành phố thông minh Bình Dương; triển khai các giải pháp đồng bộ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động đối ngoại nhằm thu hút mạnh vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn, kỹ thuật cao, công nghiệp phụ trợ và các ngành dịch vụ đô thị, chất lượng cao.

Cùng với việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong tình hình kinh tế đang bị ảnh hưởng sâu, Tỉnh Bình Dương mong muốn Nhà nước cũng phải đưa chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh nhanh chóng đi vào "cuộc sống"; đồng thời khơi thông nguồn lực, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Đặc biệt, Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng với tình hình mới, ổn định sản xuất kinh doanh, nhanh chóng phục hồi, tạo tiền đề bứt phá, nâng cao năng lực cạnh tranh, lớn mạnh về quy mô và cải thiện tuổi thọ bình quân của doanh nghiệp. Có nhiều cơ chế, chính sách giúp doanh nghiệp đẩy mạnh thương mại điện tử; tiếp cận kênh thông tin nhằm tìm kiếm thị trường mới xuất khẩu sản phẩm ngoài các thị trường truyền thống trước đây. Cần thiết thực hơn, đơn giản hóa các quy trình, thủ tục, hạ lãi suất, giãn nợ, giữ nguyên nhóm nợ, gia hạn các khoản vay tạo thuận lợi hơn cho Doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng. Để doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay. Cần tập trung cấp tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao; xây dựng khu công nghiệp; cho vay đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ. Riêng về tháo gỡ khó khăn, ngành ngân hàng mở đường dây nóng để lắng nghe, tổng hợp ý kiến của người dân, doanh nghiệp để kịp thời hỗ trợ, xử lý. Các đơn vị liên quan thực hiện nghiêm chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay; đẩy mạnh giải ngân chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm. Tập trung vốn vay cho sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tiếp cận vốn vay sản xuất kinh doanh. Song song đó, tập trung giải quyết vấn đề an sinh xã hội cho người lao động, thu hút đào tạo lực lượng lao động có tay nghề cao theo nhu cầu của doanh nghiệp. các cấp, các ngành, đơn vị quản lý nhà nước phải thể hiện sự sát cánh, đồng hành, tích cực hỗ trợ để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp về tài chính, thương mại, thanh toán điện tử; hỗ trợ doanh nghiệp thụ hưởng các chính sách về thuế, bảo hiểm và các vấn đề khác theo chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ngành; các ngân hàng phải hết sức tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, tín dụng. Tổ chức các hoạt động kết nối cung-cầu lao động đáp ứng nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động và nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp; hỗ trợ đẩy mạnh thương mại điện tử; tiếp cận kênh thông tin về xuất khẩu nhằm tìm kiếm thị trường mới. Quyết liệt triển khai nhanh các giải pháp chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư, khơi thông nguồn lực, nhất là đốc thúc giải ngân vốn đầu tư công để kích cầu nền kinh tế, nhằm phấn đấu đưa mục tiêu tăng trưởng trở lại quỹ đạo tăng trưởng trong quý 2 và những quý tiếp theo trong năm 2023./.

Đinh Thị Bích Liên

                                                 Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT