Triển khai thực hiện nhiệm vụ “Nghiên cứu giải pháp thúc đẩy kết nối mạng lưới phân phối nội địa và xuất khẩu gắn với hoạt động xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ cho các mặt hàng công nghiệp nền tảng của Việt Nam” theo quyết định số: 21/QĐ-CLCT ngày 09 tháng 03 năm 2023 của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương về việc giao chủ nhiệm và phân công các thành viên thực hiện nhiệm vụ, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương đã thành lập đoàn công tác khảo sát, trao đổi và làm việc với sở Công Thương, doanh nghiệp liên quan các tỉnh/Tp: Tp. Hồ Chí Minh, TP. Cần Thơ và tỉnh An Giangtừ ngày 02/8/2023 - 05/8/2023.
Đoàn công tác do ThS. Hoàng Thị Hương Lan, Nghiên cứu viên chính Phòng Nghiên cứu và dự báo thị trường, Chủ nhiệm nhiệm vụ làm trưởng đoàn. Nội dung làm việc với các tỉnh nhằm thu thập số liệu về thực trạngđẩy kết nối mạng lưới phân phối nội địa và xuất khẩu gắn với hoạt động xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ cho các mặt hàng công nghiệp nền tảng của Việt Nam. Qua trao đổi và thu thập tài liệu, Đoàn đã thu được một số kết quả như sau:
Công nghiệp nền tảng (CNNT) là những ngành tạo dựng cơ sở vật chất cho kinh tế - xã hội, đóng vai trò cung cấp đầu vào, công cụ máy móc, tư liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp khác. Công nghiệp nền tảng được ví như máy chủ của toàn ngành công nghiệp, chỉ khi máy chủ hoạt động thông suốt, cung cấp cho nền kinh tế kịp thời đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tiên tiến và các sản phẩm trung gian, nguyên phụ liệu chất lượng, đảm bảo tính cạnh tranh cao thì nền kinh tế mới có nền tảng vững chắc và năng lực tự chủ cao để phát triển, lớn mạnh và trở thành nền kinh tế công nghiệp.
Thúc đẩy kết nối mạng lưới phân phối nội địa và xuất khẩu gắn với hoạt động xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ cho các mặt hàng CNNT là nhiệm vụ có ý nghĩa cấp bách và có tầm quan trọng chiến lược đối với việc phát triển ngành hàng công nghiệp nền tảng của Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Điều này trước hết là xuất phát từ đặc điểm, tính chất của ngành hàng CNNT, bên cạnh tính chất đặc thù của ngành công nghiệp là “lợi thế kinh tế theo quy mô”, có nghĩa phải sản xuất ở quy mô đủ lớn mới có thể đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại, giúp giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tích lũy đủ nguồn lực để quay lại đầu tư nghiên cứu và phát triển. Ngoài ra, CNNT còn có đặc điểm là ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ, nếu không đáp ứng được các yêu cầu lớn về vốn và công nghệ tiên tiến thì rất khó để phát triển thành công các ngành hàng CNNT. Hơn nữa, để đảm bảo lợi thế theo quy mô, các mặt hàng CNNT không thể phát triển được nên đặt ra yêu cầu tiên quyết là phải có thị trường tiêu thụ đủ lớn.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn phát triển công nghiệp nền tảng trên thế giới, mạng lưới sản xuất và phân phối/chuỗi giá trị toàn cầu các mặt hàng CNNT thường được dẫn dắt và chi phối bởi các công ty đa quốc gia/xuyên quốc gia với tiềm lực kinh tế mạnh từ các nền kinh tế phát triển và mới nổi, do đó các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, muốn phát triển được CNNT thì phải tham gia, kết nối vào được các mạng lưới/chuỗi giá trị này.
Thứ ba, Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế để thực hiện thúc đẩy kết nối mạng lưới phân phối nội địa và xuất khẩu gắn với hoạt động xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ cho các mặt hàng CNNT. Đó là lợi thế về quy mô thị trường nội địa lớn với hơn 100 triệu dân, lực lượng lao động dồi dào, trình độ phát triển kinh tế đã được cải thiện nhiều, chính sách thương mại cởi mở và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, tham gia nhiều FTA, đặc biệt là FTA thế hệ mới… nên có rất nhiều thuận lợi trong việc tham gia sâu hơn trong các mạng lưới sản xuất, phân phối/các chuỗi giá trị khu vực/toàn cầu mặt hàng CNNT và thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ cho CNNT từ việc tham gia sâu rộng trong các mạng lưới/chuỗi này.
Thứ tư, bối cảnh mới trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi đặt ra yêu cầu phải thúc đẩy kết nối mạng lưới phân phối nội địa và xuất khẩu gắn với hoạt động xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ cho các mặt hàng CNNT.
Thông qua trao đổi với các Sở Công Thương, Đoàn công tác đã nắm bắt tình hình kết nội mạng lưới phân phối bán lẻ nội địa và xuất khẩu, thế mạnh và các vấn đề còn tồn tại; đề xuất, kiến nghị của Sở Công Thương và ghi nhận một số khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trên địa bàn để từ đó làm cơ sở xây dựng đề án“Nghiên cứu giải pháp thúc đẩy kết nối mạng lưới phân phối nội địa và xuất khẩu gắn với hoạt động xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ cho các mặt hàng công nghiệp nền tảng của Việt Nam”.
Một số hình ảnh Đoàn công tác:


Trần Thị Thúy Hằng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT