Trong năm 2021, mặc dù phải đối mặt với những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội của cả nước nói chung và của tỉnh Quảng Ninh nói riêng; tuy nhiên với sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, quyết tâm, quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân... cùng sự nỗ lực, cố gắng, chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các lực lượng vũ trang, y tế, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh,ngành Công ThươngQuảng Ninh đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận góp phần giữ vững địa bàn “An toàn, ổn định” đồng thời thực hiện tốt “mục tiêu kép” với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2021 của tỉnh ước tăng 10,28%, đứng thứ 2 so với các tỉnh, thành phố trong trong cả nước (sau thành phố Hải Phòng đạt 12,38%). Tỉnh được nằm trong nhóm các địa phương duy trì tốc độ tăng trưởng cao và là tỉnh liên tục trong 6 năm liền có tốc độ tăng trưởng hai con số.
Một số kết quả nổi bật năm 2021
Về sản xuất công nghiệp: Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng khá, tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, và thu ngân sách, trọng tâm là công nghiệp than, điện, chế biến chế tạo, công nghiệp phụ trợ... tăng trưởng 14,59%, chiếm tỷ trọng 52,9% trong GRDP của tỉnh. Trong đó:
Ngành khaikhoáng:Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế của tỉnh 17,8 %, tốc độ tăng trưởng cả năm 2021 ước tăng 6% và bằng 100 % so với chỉ tiêu kịch bản. Sản lượng than sạch sản xuất ước thực hiện cả năm 2021 đạt 47,616 triệu tấn, tăng 5,9 % so với cùng kỳ 2020 đạt 100,03 phần trăm kịch bản đóng góp của ngành than trong thu ngân sách nội địa chiếm 36 %.
Ngành điện:Có cơ cấu kinh tế chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong nền kinh tế của tỉnh 15,9 % tăng 4,25 % so với cùng kỳ, nên chỉ đóng góp 0,6 điểm % trong tốc độ tăng GRDP. Nguyên nhân: Sản lượng điện sản xuất ước thực hiện cả năm 2021 đạt 38,118 tỷ kWh, tăng 4 % so với cùng kỳ năm 2020 do diễn biến dịch bệnh phức tạp nên nhiều cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, hoạt động sản xuất thu hẹp quy mô kinh doanh hoặc ngừng hoạt động dẫn đến nhu cầu không cao; việc mua, bán điện được điều tiết theo cơ chế thị trường; một số nhà máy trong quy trình vận hành có xảy ra sự cố phải dừng vận hành như nhà máy nhiệt điện Cẩm phả, Uông Bí, Mông Dương; bên cạnh đó một số nhà máy điện năng lượng tái tạo trên địa bàn cả nước được bổ sung đưa vào phát điện thương mại trong năm 2021 đã tác động trực tiếp đến sản lượng của 07 nhà máy nhiệt điện than trên địa bàn tỉnh.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:Có cơ cấu kinh tế chiếm tỷ trọng lớn thứ ba trong nền kinh tế của tỉnh (chiếm 11,9 %) tăng 32.19 % so với cùng kỳ năm 2020. cao hơn 9,12 điểm % so với cùng kỳ, đóng góp 3,3 điểm % trong tốc độ tăng GRDP. Là động lực chính đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và góp phần quan trọng bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm cho lao động khu vực du lịch, dịch vụ bị ảnh hưởng do dịch Covid-19.Đặc biệt, đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, từ rất sớm tỉnh đã chỉ đạo các giải pháp phù hợp để duy trì hoạt động sản xuất ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Do vậy, dù diễn biến dịch bệnh Covid-19 phức tạp trong cả nước, những chuỗi sản xuất của tỉnh, nhất là sản xuất ngành chế biến, chế tạo không bị đứt gãy. Các dự án sản xuất của ngành này đã tăng trưởng rất tốt, bổ sung một số sản phẩm mới như tivi, loa, vải dệt thoi từ sợi tổng hợp, thân mũ, … Thuộc dự án S - Việt Nam của Tập đoàn Foxcom, công ty kĩ thuật điện tử Tonly Việt Nam, công ty Bumjin Electronics Co., Ltd công ty trách nhiệm hữu hạn dệt may Weitai Hạ Long, Qua đó, làm tăng giá trị tăng thêm của ngành này và bù đắp một phần giảm từ ngành khai khoáng và điện, đồng thời còn đẩy giá trị gia tăng khu vực này tăng cao hơn so với kịch bản đề ra.
Về bán buôn, bán lẻ hàng hóa:
Đây là khu vực dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong các khu vực kinh tế, nhất là ngành du lịch do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Chiếm tỷ trọng 9,4 % cơ cấu kinh tế, tăng 11,18 phần trăm so với cùng kỳ năm 2020. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả năm ước đạt 135.043 tỷ đồng tăng 5,1 % so với cùng kỳ năm 2020 nhưng chỉ đạt 97 % của kịch bản (kịch bản là 138.959 tỷ đồng). Nguyên nhân: Do khách du lịch, người dân hạn chế mua sắm, tập trung đông người, nên nhu cầu tiêu dùng chỉ đạt mức tăng nhẹ. Hoạt động bán buôn phục vụ kinh doanh khách sạn, nhà hàng giảm mạnh tuy nhiên doanh thu bán buôn vẫn duy trì mức tăng tương đối cao 15,7 % (trừ mô tô, xe máy) do nhu cầu nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo và xây dựng tăng.
Về kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu:Trước tình hình dịch bệnh, tỉnh đã tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh phát triển các hoạt động, thương mại điện tử, thương mại biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, thông quan hàng hóa qua các cửa khẩu, cảng biển nên tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong tỉnh ước đạt 2.562 triệu USD, tăng 9,39 % so với cùng kỳ. Có tổng số 1.166 Doanh nghiệp đã tham gia làm thủ tục hải quan qua địa bàn trong đó có 355 doanh nghiệp trong tinh và 811 doanh nghiệp ngoài tỉnh, thực hiện thủ tục hải quan cho 73.538 tờ khai với tổng kim ngạch các loại hình là 10.465 triệu USD, tăng 34% về tờ khai và tăng 31 % về kim ngạch so với năm 2020. Trong đó: phương tiện xuất nhập khẩu: 83.322 lượt tăng 41 % so với năm 2020.
Những kết quả đạt được trên đã khẳng định Quảng Ninh thật sự là điểm sáng, là điển hình trong phòng, chống dịch và thực hiện “mục tiêu kép”. Tốc độ tăng trưởng trong 6 năm liên tục đều đạt hai con số đã cho thấy sự phát triển bền vững, toàn diện của tỉnh, tiếp tục giữ vững vai trò cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của phía Bắc, một trong những trọng điểm kinh tế lớn của cả nước.
Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế của tỉnh vẫn còn hạn chế và thách thức như: Trong tổ chức, thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân Tỉnh ở một số Sở, ngành, địa phương, nhất là cơ sở còn yếu; năng lực quản trị xã hội, năng lực thích ứng, năng lực ứng phó, xử lý những tình huống cấp bách, đột xuất, bất ngờ trong công tác phòng chống dịch còn có thời điểm lúng túng.
Tăng trưởng kinh tế cả năm mặc dù đã có nhiều cố gắng, xong một số chỉ tiêu ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế chưa đạt như mong muốn. Tiến độ giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đầu tư một số công trình, tiến độ thực hiện một số dự án động lực, trọng điểm chưa đảm bảo yêu cầu, thu hút các nhà đầu tư thứ cấp tại các khu công nghiệp Nam Tiền Phong, Bắc Tiền Phong, Sông Khoai, mở rộng giai đoạn II và khu nhà ở chuyên gia, công nhân của khu công nghiệp Đông Mai và việc quy hoạch, cơ cấu lại khu công nghiệp Cái Lân còn chậm.
Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do dịch Covid 19 bùng phát diễn biến nhanh, phức tạp, kéo dài trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống kinh tế. Một số chuỗi cung ứng Quốc tế bị gián đoạn, đứt gãy, giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước, phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao. Việc huy động chuyên gia, nhà quản lý và lao động chất lượng cao, nhà thầu nước ngoài, máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ các dự án đầu tư, đầu tư công bị gián đoạn. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa phương trong giải quyết công việc có lúc, có việc còn chưa chặt chẽ, kịp thời...
Các mục tiêu năm 2022
Nhằm phát huy những thành quả đã đạt được, bước sang năm 2022, Quảng Ninh đặt ra các mục tiêu như:Sẽ quyết tâm giữ vững địa bàn an toàn và đà tăng trưởng trong trạng thái bình thường mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP đạt trên 10 %, thu xuất, nhập khẩu đạt và vượt chỉ tiêu Trung ương giao. Thu hút FDI đạt ít nhất 1,5 tỷ USD. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 11 %. Giữ vững vị trí dẫn đầu cả nước về các chỉ số. Cùng với đó, từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, tỉnh kiểu mẫu ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2022
Để hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra tỉnh Quảng Ninh tập trung triển khai các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
Quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, chương trình hành động của Quốc Hội, của Chính phủ, của Đảng bộ tỉnh, các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân Tỉnh. Sở Công thương, Ủy ban nhân dân các địa phương tổ chức hội nghị xúc tiến thương mại tại các địa phương theo kế hoạch 173/KH-UBND ngày 15 /09 năm 2021. Đẩy mạnh các chương trình kết nối, tiêu thụ sản phẩm tiêu biểu của tỉnh và phong trào: “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, từng bước khắc phục khó khăn do những ảnh hưởng của dịch bệnh gây ra, ổn định thị trường trên địa bàn tỉnh; vận động và tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh tổ chức các chương trình khuyến mại trong dịp tham gia “tháng khuyến mại tập trung quốc gia năm 2021 - Việt Nam Grand Sale 2021 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.
Triển khai các biện pháp bình ổn giá trên địa bàn tỉnh trong những tháng cuối năm và Tết nguyên đán Nhâm Dần. Các Sở ngành chức năng bám sát theo dõi kế hoạch sản lượng than sạch của Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc theo mục tiêu phấn đấu tại kết luận số 269-KL/TU ngày 18/6 năm 2021 của ban Thường vụ Tỉnh ủy; sản lượng điện sản xuất cụ thể cho từng nhà máy để đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tỉnh giao.
Triển khai thực hiện chủ đề công tác năm 2022: “ thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh; giữ vững đà tăng trưởng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với phương thức phát triển từ “nâu sang xanh”, cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu công nghiệp nhanh tăng tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo vào GRDP và thu ngân sách; phát triển hợp lý, bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, trọng tâm là ngành than.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả nghị quyết số 01/NQ/TW ngày 16/11 năm 2020 của Tỉnh ủy về phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Tập trung thu hút vốn đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo vào các khu công nghiệp, khu kinh tế, địa bàn trọng điểm; phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển ngành công nghiệp, mô hình khu công nghiệp đô thị dịch vụ thực sự là động lực tăng trưởng. Tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp tăng năng suất, sản lượng; đẩy nhanh tiến độ triển khai đầu tư, sớm đưa vào vận hành sản xuất các dự án trọng điểm ( Điện khí LNG, công nghệ tế bào điện và tấm Silic Jinco, Solar, tổ hợp công nghiệp phụ trợ ô tô thành công Việt Hưng) để tạo năng lực sản xuất mới,tiếp tục nghiên cứu mở rộng các dự án điện khí, phấn đấu xây dựng Cẩm phả trở thành trung tâm điện khí quốc gia. Tạo điều kiện tốt nhất để ngành than tăng cường các nguồn lực cho đầu tư phát triển, phát triển hợp lý, bền vững theo qui hoạch gắn với bảo vệ môi trường; khai thác tối đa cơ hội thị trường để tăng tối đa sản lượng than sản xuất, tăng tiêu thụ nội địa, xuất khẩu và nhập khẩu. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh điện, xi măng, vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh. Quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, khoáng sản phân tán nhỏ lẻ và đóng cửa các mỏ đá, đúng lộ trình quy hoạch. Tận dụng hiệu quả nguồn đất đá thải trong hoạt động khai thác, chế biến than làm vật liệu xanh.
Đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển một số ngành, lĩnh vực quan trọng mà Quảng Ninh đang có thêm lợi thế vượt trội như thương mại biên giới, xuất nhập khẩu, thương mại điện tử, dịch vụ logictic... tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động, mở rộng hoạt động kinh doanh gắn với cung cấp dịch vụ, tiện ích tốt nhất.
Triển khai hiệu quả các chương trình giảm giá, kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu.Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kĩ năng gắn với tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số; cải cách toàn diện giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy đổi mới sáng tạo./.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT