BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Vai trò của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trong phát triển kinh tế

22/12/2023

1.Một số chính sách phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp

Nghị định 192/CP ngày 15/12/1994 của Chính phủ về quy chế khu công nghiệp (KCN), là khu vực công nghiệp tập trung do Chính phủ thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 về Quy chế hoạt động của các KCN thay thế cho Nghị định 192/CP ngày 15/12/1994, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ Quyết định thành lập”.

Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ quy định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế: KCN là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định. Nghị định 35/2022/NĐ-CP ngày 28/05/2022 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế: KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và cung ứng dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.

Quyết định 105/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế quản lý Cụm công nghiệp (CCN), CCN là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập.

Theo Nghị định 68/2017/NĐ-CP, CCN là nơi sản xuất, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được đầu tư xây dựng nhằm thu hút, di dời các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác vào đầu tư sản xuất kinh doanh.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng đã thông qua định hướng và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2025, 2030 và 2045 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt 50%.

Ngày 28/5/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị định 35/2022 NĐ-CP quy định về quản lý KCN và khu kinh tế, đề ra phương hướng xây dựng, phương án phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu kinh tế, đầu tư hạ tầng, thành lập, hoạt động, chính sách phát triển và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế. Nghị định đã định hướng xây dựng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ, khu công nghiệp sinh thái giảm tiêu hao năng lượng, hạn chế khí phát thải nhà kính, chú trọng trách nhiệm xã hội và được quản trị theo mô hình Chính phủ số. Đây là xu hướng mới trong phát triển các khu công nghiệp ở nước ta hiện nay.

2. Tình hình phát triển và vai trò các khu công nghiệp, cụm công nghiệp

Tính đến đầu năm 2023, cả nước có 412 KCN đã được thành lập tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 129,8 nghìn ha, trong đó có 293 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 92,2 nghìn ha và 119 KCN đang trong quá trình xây dựng với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 37,5 nghìn ha. Hiện nay, tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN cả nước đạt khoảng 49,8 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 57%. Tính riêng các KCN đã đi vào hoạt động có tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 71,1%.

Theo dự thảo Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, trên toàn quốc, KCN ở 6 vùng như sau:

- Vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã thành lập 30 khu công nghiệp với diện tích 7.000 ha, trong đó, diện tích đã được giao đất và đưa vào sử dụng là 5.200 ha, tăng 2.720 ha so với năm 2010.

- Vùng Đồng bằng Sông Hồng thành lập 94 KCN với diện tích 26.000 ha, trong đó, diện tích đã được giao đất và đưa vào sử dụng là 19.950 ha, tăng 4.920 ha so với năm 2010.

- Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đã thành lập 68 KCN với diện tích 22.000 ha, trong đó diện tích đã được giao đất và đưa vào sử dụng là 17.100 ha.

- Vùng Tây Nguyên đã thành lập 10 KCN với diện tích 2.000 ha, trong đó, diện tích đã được giao đất và đưa vào sử dụng là 1.550 ha, tăng 290 ha so với năm 2010.

- Vùng Đông Nam Bộ đã thành lập 119 KCN với diện tích 44.000 ha, trong đó diện tích đã được giao đất và đưa vào sử dụng là 34.240 ha.

- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thành lập 60 KCN với diện tích 13.000 ha, trong đó diện tích đã được giao đất và đưa vào sử dụng là 12.760 ha.

Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD; giải quyết việc làm cho 5-6 triệu lao động trực tiếp vào năm 2025 và 7-8 triệu lao động vào năm 2030.

Trong 10 năm tới, quy hoạch diện tích đất KCN dự kiến tăng thêm 115.000 ha, đạt 205.800 ha. Tổng số KCN là 558, tăng thêm 177 KCN so với năm 2020.

Tính đến giữa năm 2022, KCN và khu kinh tế trên cả nước đã thu hút được 9.784 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký đạt 194,69 tỷ USD, vốn thực hiện 109,79 tỷ USD; thu hút 9.331 dự án đầu tư trong nước (DDI), với tổng vốn đầu tư đạt 2,061 triệu tỷ đồng. Tổng doanh thu đạt khoảng 235 tỷ USD, tăng hơn 8% so với năm 2018. (Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Nhiều KCN đã thu hút được các dự án sử dụng công nghệ cao như dự án của Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) tại Bắc Ninh, Thái Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh; dự án của Tập đoàn Kyocera (Nhật Bản) tại KCN Thăng Long II, tỉnh Hưng Yên; dự án sản xuất dây chuyền động ô tô của tập đoàn Robert Bosch (Đức) tại KCN Long Thành, tỉnh Đồng Nai, trong những năm gần đây số lượng các dự án công nghệ cao, hiện đại đầu tư vào các KCN ngày càng tăng lên. Trong đó, số lượng các dự án FDI trong lĩnh vực chế biến, chế tạo chiếm khoảng 70-80% tổng số các dự án đầu tư nước ngoài.

Các doanh nghiệp trong các KCN đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu ngân sách, tạo việc làm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

Về Cụm công nghiệp, đến hết năm 2020, cả nước có 968 CCN với tổng diện tích 30.912 ha đã được thành lập, trong đó có 450 CCN do doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng (chiếm 46,5%).  Năm 2021, cả nước có 955 CCN với tổng diện tích 29.782 ha đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết, 644 CCN với tổng diện tích 20.222 ha đã được phê duyệt dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật với tổng mức vốn đầu tư trên 115.200 tỷ đồng.

Tính chung cả nước có 730 CCN với tổng diện tích 22.336 ha hoạt động sản xuất kinkh doanh, phân bố tại 57 tỉnh, thành phố. Hiện còn 6 tỉnh, thành phố chưa có CCN hoạt động bao gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Cần Thơ, Trà Vinh, Bạc Liêu.

Phát triển các KCN, CCN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu theo hướng tích cực, tạo công ăn việc làm, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp

- Xác định vai trò, vị trí quan trọng của các KCN, CCN trong quá trình công nghiệp hóa, phát triển kinh tế của đất nước. Từ đó nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực nhằm xây dựng và phát triển các KCN, CCN đạt hiệu quả cao.

- Xây dựng Luật điều chỉnh hoạt động của KCN, CCN theo hướng xác định trọng tâm phát triển và hoàn thiện cơ chế chính sách trong phát triển kết cấu hạ tầng, tiếp cận đất đai, thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, xây dựng.

- Phát triển các mô hình KCN, CCN theo hướng sinh thái, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ứng dụng trong phát triển KCN, CCN. Phát triển sản xuất trên nguyên tắc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, gắn với liên kết phát triển vùng, hình thành cụm liên kết ngành.

- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với KCN, CCN, như việc kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước về KCN, CCN ở cả Trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, tiếp cận phương thức quản lý hiện đại, hiệu quả. Phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, ngoài ra phục vụ cho công tác xúc tiến, hợp tác đầu tư với các đối tác, nhà đầu tư trong và ngoài nước.

- Thu hút đầu tư vào KCN, CCN, ưu tiên các dự án có công nghệ hiện đại, cam kết chuyển giao cộng nghệ, mở rộng thị trường, phát triển chuỗi cung ứng và phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu./.

TS. Trần Thị Thu Hiền

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT