Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2020 của ngành Công Thương Long An

RESEARCH

VIETNAM INSTITUTE OF STRATEGY AND POLICY FOR INDUSTRY AND TRADE

Home >> Research

Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2020 của ngành Công Thương Long An

Năm 2020, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều bất lợi, hầu hết nền kinh tế của các nước đều suy giảm - tăng trưởng âm cùng với tác động của chiến tranh thương mại giữa một số nước, nhất là giữa Mỹ - Trung, đặc biệt là biến đổi khí hậu và đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và ngành công thương của nước ta nói chung, kinh tế và ngành công thương Tỉnh Long An nói riêng. Nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh Long An và Bộ Công Thương và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh với phương châm thực hiện mục tiêu kép: vừa phòng, chống dịch vừa phát triển kinh tế nên ngành công thương của tỉnh vẫn có sự chuyển biến tích cực, sản xuất kinh doanh trong quý III năm 2020 đã có sự phục hồi, nhất là ngành công nghiệp luôn là động lực phát triển kinh tế của tỉnh; thu hút nhiều dự án năng lượng sạch, năng lượng mặt trời phát triển.

Năm 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 5,91% (kế hoạch đề ra 9,5-9,6%); trong đó, khu vực I (nông, lâm, thủy sản) ước tăng 2,07%, khu vực II (công nghiệp, xây dựng) ước tăng 11,45% (trong đó công nghiệp tăng 11,43%), khu vực III (thương mại, dịch vụ, thuế) ước giảm 0,29%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng định hướng, theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - thủy sản; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản dự kiến chiếm tỷ trọng 15,32% trong tổng GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 52,14%; khu vực thương mại, dịch vụ và thuế chiếm 32,54%. 

1. Hoạt động công nghiệp: Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2020 ước tăng 8,36% so với cùng kỳ năm 2019.Trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,19%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 12,93%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,59%. Tổng số các nhóm ngành sản phẩm công nghiệp là 73 nhóm, trong đó 50/73 nhóm có tốc độ tăng so với cùng kỳ (12 nhóm sản phẩm tăng trên 20%, 19 nhóm tăng từ 10 - 20% như: Sản xuất ba lô tăng 18,44%; Thức ăn thủy sản tăng 17,64%; Gạo xay xát tăng 16,35%; Sản xuất dược phẩm tăng 15,49%; Sản xuất sơn, vecni tăng 15,34%; Sản xuất thùng, hộp bằng bìa cứng tăng 15,18%; Sản xuất phân bón tăng 14,47%; Hạt điều khô tăng 11,37%;...) và 23/73 nhóm giảm so với cùng kỳ (sản xuất túi xách giảm 35,13%; Sản xuất vải dệt thoi từ sợi tổng hợp giảm 34,81%; Sản xuất cấu kiện xi măng giảm 31,25%; Sản xuất giày, dép thể thao giảm 21,71%; Sản xuất áo sơ mi người lớn giảm 17,36%; Sản xuất bia đóng chai giảm 11,93%; Sản xuất nước khoáng giảm 7,72%;...)

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá năm 2010) ước là 253 ngàn tỷ đồng, đạt 91,3% kế hoạch, tăng 9,5%. Tỷ lệ hộ sử dụng điện: Toàn tỉnh hiện có 471.157/471.356 hộ có điện, đạt 99,96%, trong đó tỷ lệ hộ sử dụng điện nông thôn đạt 99,95%.

2. Hoạt động thương mại: Năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ  đạt 88.783,6 tỷ đồng, giảm 0,9% so với năm 2019, đạt 86,4% kế hoạch. Trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa là 75.926 tỷ đồng tăng 1,5%; lưu trú ăn uống là 8.052,8 tỷ đồng giảm 15,6%; du lịch là 11 tỷ đồng giảm 58,3%; dịch vụ khác là 4.793,8 tỷ đồng, giảm 8,4%.

Kim ngạch xuất khẩu năm 2020 ước đạt 6 tỷ USD, tăng 0,5% so với năm 2019. Trong đó, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: gạo đạt 640 ngàn tấn,đạt 323 triệu USD,giảm 0,7% về lượng và tăng 8,3% về giá trị; hạt điều 87 triệu USD tăng 8,5%; thủy sản 252 triệu USD tăng 8%; cơ khí - ăc quy - sắt thép –điện tử 1.200 triệu USD tăng 40%; gỗ 150 triệu USD tăng 26%; giày dép 890 triệu USD giảm 15%; dệt may 1.100 triệu USD giảm 30%; sản phẩm nhựa, cao su 252 triệu USD giảm 5%.

Kim ngạch nhập khẩu đạt 4 tỷ USD, giảm 7,4% so với năm 2019. Các thị trường Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kong, Đài Loan vẫn có xu thế tăng trên 10% giá trị xuất - nhập khẩu của tỉnh.

Thương mại biên giới: Năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 75,65 triệu USD, tăng 333% so với năm 2019; trong đó xuất khẩu 32,97 triệu USD, tăng 506%; nhập khẩu 42,68 triệu USD, tăng 254%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu phát sinh: Điện năng, Xi măng Portland hỗn hợp, sản phẩm giày dép, giấy công nghiệp IP dạng cuộn, lon nhôm rỗng không nắp.... Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: lợn sống để giết mổ, thuốc lá điếu kinh doanh tại cửa hàng miễn thuế, nguyên phụ liệu để sản xuất giày dép. Trị giá hàng hóa mua bán qua biên giới đất liền ước 75 triệu đồng.

3.  Phát triển hạ tầng công nghiệp và thương mại

a) Đối với hạ tầng các cụm công nghiệp

Theo Đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển cụm công nghiệp (CCN) trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, toàn tỉnh sẽ có 62 CCN với tổng diện tích 3.106,5 ha và CCN Hải Sơn Đức Hòa Đông có diện tích 261,2 ha (nằm ngoài quy hoạch 62 CCN). Nhưng đến hết năm 2020 mới có 21/62 CCN (diện tích 1.081,2 ha) và CCN Hải Sơn Đức Hòa Đông đã đi vào hoạt động; 38/62 CCN đang giai đoạn triển khai (1.862,9 ha); 03 CCN chưa có chủ trương (162,4ha) .

Về đầu tư hạ tầng CCN: Hiện đã có 59/63 CCN đã phê duyệt chủ trương đầu tư hạ tầng với tổng diện tích 2.944 ha. Ngày 28/5/2020, CCN Vinh Khang đã khởi công xây dựng hạ tầng, đã tiếp nhận 01 nhà đầu tư 02 ha.

Về thu hút nhà đầu tư thứ cấp: Từ đầu năm đến nay, đã có thêm 01 CCN đi vào hoạt động và các CCN đã thu hút 78 DN thứ cấp, diện tích 63,8 ha. Trong đó:

+ CCN Hải Sơn - Long Thượng thu hút được 06 DN diện tích khoảng 3 ha.

+ CCN Hải Sơn Đức Hòa Đông đã thu hút được 70DN, diện tích 60 ha. Công ty TNHH Hải Sơn đang thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư thứ cấp sau khi bổ sung các lô vào danh sách các lô đất hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật.

+ CCN Đức Thuận đã thu hút được 02 DN diện tích 0,8 ha. Hiện có 22 CCN hoạt động thu hút 622 dự án, diện tích đất đã cho thuê 756,48 ha. Tỷ lệ lấp đầy của các cụm công nghiệp hoạt động 77,67%.

b) Đối với hạ tầng năng lượng: Trong năm 2020 đã có 03 trạm 110 kV Cần Giuộc,Thủ Thừa, Đức Hòa 3 và 03 nhà máy năng lượng mặt trời đã đóng điện đi vào hoạt động. Hiện có 08 dự án năng lượng mặt trời với công suất là 441,1 MWp (TTC Đức Huệ 1, Europlast Long An, BCG Băng Dương, nhà máy GAIA, Solar Park 1, 2, 3, 4) đi vào hoạt động và 01 dự án đã được Chính phủ đồng ý, chờ bổ sung vào quy hoạch. Đồng thời, đang triển khai các công trình điện như xây dựng 02 trạm 500 kV Đức Hòa (vốn đầu tư trên 2.000 tỷ đồng); 500kV Cần Giuộc (đang chọn vị trí), 02 trạm 110kV (Hựu Thạnh 2, Tầm Vu 2).

Hiện tại, Chính phủ đã có ý kiến đồng ý Điều chỉnh 02 Nhà máy Nhiệt điện Long An 1, Long An 2 (có trong sơ đồ Quy hoạch điện VII) từ sử dụng than sang sử dụng nhiên liệu khí LNG nhập khẩu; điều chỉnh quy mô công suất nhà máy điện LA1 (từ 1.200MW-1.500MW), LA2 (từ 1.600MW thành 1.500MW); có 1.735 khách hàng đã hòa lưới điện mặt trời mái nhà, với tổng công suất 120.902 kWp.

c) Đối với hạ tầng thương mại: Tính đến hết năm 2020 toàn tỉnh: có 133 chợ (có 18 chợ do tư nhân đầu tư), trong đó có 107 chợ nông thôn; có 07 siêu thị (có 04 siêu thị kinh doanh tổng hợp, 03 siêu thị điện máy); 01 Trung tâm thương mại Vincom Plaza (thuộc Tập đoàn Vingroup). Có 155 Cửa hàng tiện ích (trong đó Bách Hóa Xanh 75, điện máy xanh + thế giới di động 62, San Hà 06, Vinmart+ 04, salon ôtô 06, Co.op Food 02) góp phần phát triển hệ thống bán lẻ, phục vụ nhu cầu mua sắm của ngưới dân. Ngoài ra, còn có 461 cửa hàng kinh doanh xăng dầu; 03 kho xăng dầu (tổng sức chứa 16.650 m3); 413 cửa hàng kinh doanh bán lẻ LPG; hiện có 02 Trung tâm logistics đi vào hoạt động (01 tại cảng Long An; 01 tại xã Thanh Phú, huyện bến Lức đi vào hoạt động ngày 23/10/2018 với quy mô diện tích khoảng 5.000 m2 của Công ty CP Vận tải Biển OPL. Riêng trong năm 2020, có 01 chợ Thủ Thừa được xây mới đi vào hoạt động với vốn đầu tư là 11,5 tỷ đồng; 28 bách hóa xanh, 12 điện máy xanh, 03 cửa hàng San Hà, 01 salon ô tô đi vào hoạt động.

Nhìn chung, năm 2020 hầu hết các ngành nghề đều bị ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19, nên tình hình sản xuất công nghiệp tăng thấp, tình hình xuất khẩu tăng ít so với cùng kỳ năm trước, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ giảm(chủ yếu giảm nhiều nhất là dịch vụ ăn uống, du lịch).Xuất khẩu giảm nhiều nhất là các mặt hàng dệt may, da giầy, bia rượu,...

Công nghiệp tăng thấp hơn mức tăng cùng kỳ là do dịch bệnh không chỉ bùng phát ở các nước châu Á mà ở các nước châu Âu và châu Mỹ cũng bùng phát dịch bệnh nên nhiều nước thực hiện lệnh phong tỏa, nhu cầu tiêu dùng thấp dẫn đến đơn hàng bị hoãn và hủy nhiều, do đó tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng hóa đang gặp rất nhiều khó khăn, tồn kho nhiều (tăng chi phí lưu kho và cước phí vận tải). Tình hình xuất khẩu bắt đầu bị thiệt hại nhiều từ tháng 4/2020 trở đi. Đợt dịch covid lần đầu thực hiện giãn cách xã hội và đợt dịch Covid tái bùng phát hủy tour nhiều nên làm cho dịch vụ lưu trú du lịch giảm mạnh. Đồng thời do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid – 19 nên hạn chế tổ chức các sự kiện đông người nên các chương trình xúc tiến thương mại thực hiện bị hạn chế.

 Mặc dù tái bùng phát dịch Covid-19 đợt 2, đợt 3 nhưng tình hình sản xuất và xuất khẩu vẫn có tín hiệu khả quan, có dấu hiệu phục hồi từ từ trong tháng 9/2020. Việc phát triển của hệ thống bán hàng điện tử đã giúp cho hàng hóa vẫn tiêu thụ tốt. Sự phát triển thêm của chuỗi cửa hàng tiện ích San Hà, Bách Hóa Xanh đã góp phần phục vụ nhu cầu mua sắm tiêu dùng của người dân. Đã có thêm 01 cụm công nghiệp, 03 trạm 110 kV Cần Giuộc, Thủ Thừa, Đức Hòa 3 và 03 nhà máy năng lượng mặt trời, tăng 44 cửa hàng tiện lợi (Bách Hóa Xanh, San Hà, Điện máy Xanh, salon ô tô) đi vào hoạt động, góp phần phục vụ mua sắm của người dân được tốt hơn góp phần phát triển tăng trưởng kinh tế của tỉnh./.

Nguồn: Theo báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Long An

 

Trần Thị Thúy Hằng

Phòng Thông tin, thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

RELATED RESEARCH